Rõ ràng là cô gái đã “bật đèn xanh” cho chàng trai bằng những câu đùa vui nhưng vô cùng ý nhị. Trong bao nhiêu thứ rau dân dã, người con gái lại chọn rau cần bởi chúng thường sống ở ao nhà, trong nước sạch, dễ trồng và dễ chế biến. Loài rau có thân dài óng ả và trắng nõn nà. Chẳng thế mà dân gian ví “trắng như ngó cần”. Lại nữa: Chòm lá xanh tươi lúc nào cũng bóng như thoa mỡ, hồn nhiên giản dị chẳng cần chăm bón nhiều. Cây rau cần như biểu tượng của người con gái “nhà lành” thôn quê, mảnh mai hiền thục... Cho nên người con gái trong lời ca càng “nhún mình” thì giá trị nhân phẩm, giá trị tình yêu của nàng lại được nâng tầm thanh cao.

leftcenterrightdel
Minh họa: MẠNH TIẾN

Chợt nôn nao nhớ bát canh suông rau cần đậm đà vị quê. Rau vừa được hái lên từ ao nhà, rửa sạch cả cây rồi mới vặn ra chứ không dùng dao thái để cọng rau thêm mềm. Cà chua “muỗi” mọc đầy vườn, quả chỉ bằng quả táo ta, lúc lỉu từ gốc đến ngọn. Hái vài chục quả cho một nồi canh và nhất định là phải nêm mắm chắt. Canh được đun bằng củi hay lửa rơm, vừa nhanh vừa sôi đều, chỉ cho rau vào đảo qua vì “cần tái cải nhừ” mà! Bát canh bốc khói, bắt mắt với màu trắng nõn của rau, màu đỏ hồng cà chua, màu xanh ngắt của vài cọng thì là, hành hoa... Mùi hương sực nức đặc trưng của bát canh cần tỏa ra từ mâm cơm đặt trong manh chiếu trải vội nơi chái bếp hay giữa sân nhà vừa lúc trăng lên thật tuyệt diệu làm sao...

Ngày xưa thịt thà khan hiếm, rau trở thành thực phẩm chủ lực. Mùa xuân là mùa lễ hội, mùa cưới hỏi, rau cần đang chính vụ. Bởi thế, rau cần đóng một vai trò quan trọng trong mâm cỗ thôn quê. Có thể vì thế mà nàng thôn nữ trong câu ca trên đây đã nhờ “muôi rau cần” để thổ lộ tâm tình với người mà mình “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”? Chẳng thế, có chàng trai cũng đã mượn rau cần để tỏ tình: Cá trê nấu với rau cần/ Muốn về bên ấy cho gần với em...

Và chàng còn vẽ ra một bức tranh vui hạnh phúc:

Trên vườn cải dưới rau cần/ Cây mơ cây mận ở gần bờ ao...

Thật giản dị, bình thường và “đủ đầy” chân chất quá đỗi!

Rau cần thật dễ trồng, nhưng lại là loài cây sinh sản vô tính nên việc nhân giống khá công phu. Muốn có rau cần ăn năm nay, người ta phải lo giống má từ mùa xuân năm trước. “Cần xuống, muống lên”, sau vụ thu hoạch giêng hai, mỗi nhà để riêng ra một đám cần già, đốt dày, làm giống cho vụ sau. Suốt mấy tháng ròng phải che đậy cẩn thận cho qua cái nắng mùa hè gay gắt. Đầu thu, lấy lên để cả rễ, cắt đốt vài ba phân, nhúng tro bếp cho hãm nhựa và dâm bùn ẩm. Cuối thu là có cây giống để cấy. Cây rau cần giống như cây lúa trời ở Đồng Tháp Mười miền Nam, cứ nước đến đâu, cây vươn dài đến đó, nương tựa vào nhau, dáng mong manh mềm yếu mà chẳng đổ bao giờ. Cây rau cần không kén cách chăm bón, khi cấy được mươi ngày, chỉ cần vài mủng tro bếp để “ấm cây”. Cứ cữ nước cách ngọn 15 đến 20cm là vừa. Ít nước, cây rau có màu xanh, cằn cỗi, bán mất giá. Nếu để nước ngập lá, cây bị úng mà chết. Từ lúc trồng đến khi cây rau dài 50 đến 70cm, thời gian tầm hai tháng là thu hoạch được.

Lại nhớ những ngày trời rét căm căm, có cả mưa phùn, cha tôi thắt lại chiếc khăn mỏ rìu quấn trên đầu rồi từ từ bước xuống làn nước buốt. Người thọc tay xuống bùn sâu để móc cụm rau cần. Bùn đen theo đó mà sục lên. Trên mưa rét, dưới nước buốt giá, quần áo đẫm bùn... Chỉ có mảng rau cần trong tay người là tươi hơn hớn, trắng nõn nà... Mẹ tôi xắn quần cao quá gối, đón những mảng rau từ tay cha mà rửa cho trắng tinh và lấy rơm bó thành từng mớ xinh xắn gọn gàng. Nhìn gánh rau đều tăm tắp, sạch sẽ, óng mượt như tơ, có ai nghĩ đến đôi hàm răng đánh vào nhau cầm cập, đôi môi xám ngoét vì ngâm trong bùn nước giá lạnh nhiều giờ và bàn tay run rẩy cóng tê của cha mẹ và bà con cô bác quê tôi?

Chị em chúng tôi cứ nối nhau lớn lên từ những chuỗi ngày lam lũ của cha và từ những bát canh cần nhọc nhằn của mẹ. Chị Chắt con bác ruột tôi xinh lắm. Bác gái tôi thường “nhắc nhủ” cô con gái rượu bằng câu ca: Có con mà gả chồng gần/ Có bát canh cần nó cũng mang cho... Khi lớn lên, nếm trải đủ mọi nỗi buồn vui thế sự, tôi mới thấm thía lời ca này. Chị tôi và cả tôi cũng đều “lấy chồng gần”, nhưng chị thì một đời hiếu thảo, vuông tròn với mẹ cha, làng xóm. Chỉ có tôi là chẳng thể bằng chị, bằng em. Vì cuộc mưu sinh, vợ chồng con cái dắt díu nhau đi phiêu bạt xứ người, tưởng đường thênh thang mà hóa lang thang… Để rồi nhiều khi ngồi nhớ bữa cơm ngày mùa, có dưa cần muối lẫn lá bắp cải bánh tẻ với vài cọng rau răm và đôi nhánh tỏi; nhớ bát dưa cần chín tới ngả màu hồng hồng, vị thơm giòn ngọt, chua chua... chấm với nước mắm cáy đậm đà thơm thảo...

Thoắt đã mấy chục năm! Cha tôi đã vĩnh viễn đi xa, về phía chân trời ngợp màu mây trắng. Mỗi năm đến ngày giỗ cha, tôi vẫn dâng lên ban thờ đĩa dưa rau cần với ly rượu trắng như sinh thời cha vẫn nhâm nhi mỗi lúc vui buồn. Mẹ tôi cũng đã già và không còn có thể nấu cho tôi bát canh cần suông như ngày xưa nữa. Thôi thì quy luật tạo hóa làm sao cưỡng được?

Ôi những cái ao rau cần thân thiết bình lặng của làng quê...

Tản văn của TÂM DUNG