Trong mối quan hệ tổng hòa đó, chức năng của người họa sĩ thiết kế mỹ thuật và người đạo diễn thật sự gắn bó với nhau một cách mật thiết, để làm cho vở diễn đạt yêu cầu cả về nội dung và hình thức, đưa ngôn ngữ trang trí đến với người xem-tạo điều kiện cho người nghệ sĩ biểu diễn, sáng tạo những vai diễn bất tử của mình. TKMTSK đương đại Việt Nam (không tính đến những Ban Kịch tài tử hay các gánh hát tuồng, chèo, cải lương... trước Cách mạng Tháng Tám 1945 và trong kháng chiến chống Pháp, với tính chất nghiệp dư và chỉ với sự tham gia của một vài họa sĩ); thì kể từ ngày thành lập Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam (1957) đến nay, đã đi qua một chặng đường tròn 60 năm. Suốt hơn nửa thế kỷ ấy, đã hình thành một đội ngũ các họa sĩ sân khấu Việt Nam có nghề, có bản lĩnh và tài năng; vượt qua không ít khó khăn, thiếu thốn, lạc hậu của sân khấu, bằng các thủ pháp gợi tả, ước lệ, cách điệu, tượng trưng, kết hợp giữa nghệ thuật truyền thống của cha ông và sân khấu hiện đại, đã thiết kế sân khấu của hàng nghìn vở diễn từ tuồng, chèo, cải lương, kịch nói, múa rối, kịch dân ca, nhạc vũ kịch, ca múa nhạc, xiếc…và giành nhiều giải thưởng, tại các liên hoan, hội diễn sân khấu trong nước và quốc tế… Trong chặng đường lịch sử của nền sân khấu cách mạng và lịch sử hoạt động của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, TKMTSK đã đóng một dấu son và được ghi nhận như một bộ phận không thể thiếu được của tổng thể nghệ thuật sân khấu Việt Nam đương đại. Nhiều cuộc triển lãm về TKMTSK trong nhiều năm qua, đã ghi nhận một phần rất nhỏ, những gì mà đội ngũ các họa sĩ đã dày công đóng góp.
Cảnh trong vở "Thương nhớ Trầu Cau" của Nhà hát Chèo Quân đội. Ảnh: TRẦN HẠNH
Tuy nhiên, trong công cuộc đổi mới, hội nhập hôm nay-nhất là vài ba năm trở lại đây- trong cơ chế thị trường, cũng như các khâu kịch bản, đạo diễn, âm nhạc, diễn xuất của diễn viên... trang trí sân khấu cũng có vẻ chững lại với sự đơn điệu và lặp lại chính mình. Một đội ngũ quá mỏng (vài ba chục anh em họa sĩ sân khấu trong cả nước), với điều kiện sân khấu quá ít ỏi của các nhà hát đã không thể phát huy hết sức sáng tạo của người họa sĩ. Nếu so sánh với sân khấu các nước tiên tiến trên thế giới, chúng ta phải chấp nhận một thực tế là sân khấu của các rạp hát Việt Nam hôm nay quả là cũ kỹ, nghèo nàn, đơn điệu và lạc hậu về mọi phương diện kỹ thuật, từ ánh sáng, âm thanh đến công tác hậu đài, chuyển cảnh, các yêu cầu tối thiểu về thao tác, phối hợp trên sân khấu. Sân khấu của ta vẫn chỉ là một sàn diễn cố định vài chục mét vuông từ đầu đến cuối vở diễn và chung cho tất cả các loại hình nghệ thuật từ ca múa nhạc, giao hưởng hợp xướng, tuồng, chèo, cải lương, kịch nói cho đến cả hoa hậu áo dài và thời trang áo tắm... Việc tắt đèn, chuyển cảnh thay đổi không gian, địa điểm vẫn thô sơ, lạc hậu, kéo ra kéo vào, lên xuống vài tấm phông vải mềm và đặt xuống, dựng lên vài tấm bục gỗ dán, pa-nô di động với chất liệu chủ yếu là gỗ và vải. Trong lúc các nước, nhất là các nước có nền sân khấu tiên tiến, đã từ lâu, sân khấu- sàn diễn-đã được hiện đại hóa một cách khá hoàn chỉnh. Những sân khấu quay nhiều chiều, nhiều tầng, nhiều lớp, cả lên cao hay xuống thấp dưới gầm sàn diễn, cả mở rộng và thu hẹp không gian, những cầu diễn tự động nối khán giả với nghệ sĩ biểu diễn, với ánh sáng, âm thanh hoàn hảo bởi hàng trăm ngọn đèn chiếu sáng và tạo dựng không gian bằng ánh sáng. Để dàn dựng, xử lý một lớp kịch, nếu cần thiết, đạo diễn và họa sĩ có thể đưa cả voi, ngựa, ô tô và nhiều cảnh thật khác của đời sống lên sân khấu... Nghĩa là sự hiện đại hóa một cách triệt để đã tạo điều kiện tối đa cho đạo diễn và họa sĩ tìm tòi, sáng tạo trong trang trí; mở ra nhiều không gian linh hoạt, biến hóa, bất ngờ, đầy gợi cảm và hết sức chủ động với đầy đủ các chất liệu cũng đa dạng và phong phú cho người nghệ sĩ biểu diễn. Nào là các loại chất dẻo, thủy tinh, các loại kính màu và gương phản chiếu, các tấm nhựa công nghiệp và các loại sợi, thảm cho mặt sàn sân khấu phù hợp với phong cách của từng vở diễn; và từng loại hình nghệ thuật sân khấu, từ cổ điển đến đương đại; ngay cả mặt sàn sân khấu, cũng được tạo nên bằng các loại thảm màu sắc khác nhau, phù hợp với phong cách của mỗi vở diễn, cũng như mỗi loại hình sân khấu…
Tuy đã có nhiều nỗ lực nhưng so với các quốc gia có nền sân khấu phát triển trong khu vực và thế giới, trang trí mỹ thuật sân khấu Việt Nam vẫn thua sút một bậc (Cảnh trong vở "Hùng ca Bạch Đằng Giang" Nhà hát Chèo Quân đội). Ảnh: TRẦN THỦY
Trong công cuộc đổi mới, hội nhập của hơn 15 năm đầu thế kỷ XXI này; Hà Nội (và các nhà hát Trung ương), so với điều kiện chung của cả nước, thì cùng với TP Hồ Chí Minh vẫn là những trung tâm sân khấu lớn, với nhiều thế hệ nghệ sĩ tài năng, đã khẳng định một diện mạo lớn trong suốt trên nửa thế kỷ qua. Tuy nhiên, công bằng mà nói, dăm ba rạp hát biểu diễn ở Thủ đô hiện nay, điều kiện sân khấu cũng đã quá lạc hậu so với sân khấu thế giới. Vì thế, không ít ý kiến trong giới sân khấu, cũng như dư luận xã hội đã cho rằng-nếu sân khấu Việt Nam không được công nghiệp hóa và hiện đại hóa, thì sân khấu nói chung, trong đó có mỹ thuật sân khấu-sẽ ngày càng tụt hậu, khó có thể hòa nhập và bắt kịp những nền sân khấu tiên tiến, hiện đại trên thế giới; nhất là trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
NSND, họa sĩ LÊ HUY QUANG