Chợ rất ít người. Mới 10 giờ sáng mà chỉ còn những người bán hàng ngồi trông nhau và thở dài. Chim chóc ở đâu kéo về những tán cây xà cừ nô đùa ầm ĩ. Dường như chúng không quan tâm đến việc cái lò quay thịt dưới gốc cây có nóng lên hay nguội ngắt. Cũng chả quan tâm những người đàn bà bán hàng ngao ngán nhìn nhau.

Ngồi gắng thêm lúc nữa thì Biên thu dọn để về. Còn năm quả dứa, độ ba cân khoai lang, ba mớ rau muống. Bí ngô thì còn nguyên một thúng.

Về đến nhà không thấy hai đứa con đâu. Bà mẹ chồng bị lãng tai, có hỏi cũng bằng không. Biên bắc tay lên miệng gọi. Không thấy tiếng thằng Huy, cũng chẳng thấy tiếng con Hằng thưa như mọi khi. Mọi khi chợ về, không thấy con, Biên gọi, kiểu gì chúng cũng “dạ” bên nhà hàng xóm. Biên chỉ cần quát, đem cái “dạ” về đây là chúng răm rắp về. Sao nay cả xóm yên ắng lạ thế nhỉ?

leftcenterrightdel
Minh họa: PHẠM HÀ

Bà mẹ chồng Biên chỉ cái chổi ra đường lớn và bảo: “Tụi nó đi ra ngoài ấy, bảo ra chợ với mẹ. Tôi thì bận lợn, gà. Con chị thì nghịch như giặc. Bảo cho đi học thì không cho đi, nhà trường cứ cho ở nhà làm loạn”. Biên run bắn người, vứt hết cả hàng họ đấy, chả kịp dọn dẹp mà lao bổ sang láng giềng, nhà nào có trẻ con cũng hỏi “Có thấy Huy, Hằng nhà cô không?”. Nhưng không ai thấy con cô cả. Rồi Biên chạy ra ao làng, rồi lại lộn về chợ, đạp xe cả lên trường học, về nhà mẹ đẻ...

Đến 1 giờ chiều thì Biên tơi tả phờ phạc. Cô đi báo trưởng khu, nhờ mọi người đi tìm con. Biên cũng không dám gọi điện cho chồng. Chồng Biên đi xây tận trên mạn ngược. Đã biết tình hình thế nào đâu mà gọi. Mẹ chồng bảo: “Hay anh em chúng nó ra sông?”. Biên thoáng nghĩ, sông xa nhà thế, chúng ra đấy làm gì. Nhưng Biên vẫn lấy xe đạp ra bến đò.

*

*    *

Ông Thinh nhà ở gần sông, khúc sông người ta ít qua lại vì chục năm gần đây liên tục lở. Vườn nhà ông lở gần hết rồi. Ông biết nó lở ở đây rồi lại bồi vào đâu đó thôi, cũng chả đi đâu mà mất cả. Những hộ dân ngoài bãi đi làm qua về làng thường đi đò ở bến trên cách nhà ông một đoạn khá xa. Chỉ nghe tiếng đò máy chứ không nhìn thấy người. Chòm này có ba nhà nhưng cả hai nhà hàng xóm đều khóa trái cửa đi vắng triền miên. Một nhà đủ ông, đủ bà thì chia nhau đi trông cháu. Ông ngược núi, bà xuôi về thành phố. Năm về nhà mấy lần để dọn vườn tược. Vườn có vài thứ cây tạp cũng chả có giá trị gì mà lo mất. Nhà thì trừ mối mọt có xơ múi tí nào thì xơ múi chứ cũng chả ai khiêng đi. Khóa cổng phải gió mưa han gỉ thì thay cái khóa khác. Nhà còn lại có ba bố con. Vợ đâu như đi làm thuê bên Đài Loan, chồng ở nhà trông con. Rồi thấy bấn quá, anh chồng gửi cả hai con xuống ông bà ngoại dưới thị trấn để ông bà tiện chăm sóc. Ông bố trẻ này xem chừng chăm ăn, biếng làm. Vườn tược rậm um ra, chỉ tổ bọn trẻ đến bắn chim. Sân ngõ đầy lá không quét bao giờ. Cũng cậy là chả có ai đến nên không cần phải sạch. Cũng cậy là vợ kiếm nhiều tiền gửi về ăn tiêu bạt mạng nên không cần bòn bới, tích cóp. Có nhắc thì bảo người quét trước, lá rụng sau. Muốn không rác sân vườn chỉ có chặt hết cây. Đúng là số sướng, dưng dưng mà sướng. Và ông Thinh, mang tiếng có hai nhà hàng xóm tối lửa tắt đèn nhưng hóa ra lại lụi cụi một mình. Làng ngoài đê, đã ít người đến cái chòm này. Còn phía trong đê, lại càng không bao giờ họ ra.

Ông Thinh, xa xưa, thời trai tráng cũng từng có vợ. Nhưng cái số ông khổ đường vợ con. Vào cái lần vợ ông sinh non rồi bị băng huyết, chết cả mẹ lẫn con, vì quá đau buồn mà ông thề trước vong linh vợ là sẽ không tục huyền. Cái nghèo khổ, cái bấp bênh của nghề chài lưới, cái tiếng không hay của dân làng chài lênh đênh... tất cả đều ngầm ủng hộ, hỗ trợ cho lời thề ấy. Và ông ở vậy khi cha già mẹ héo, không còn ai đốc thúc, giục giã nữa. Ông Thinh có bà em gái duy nhất lấy chồng tận một tỉnh miền biển. Bà em cũng mất dăm năm nay rồi. Xét về huyết thống gần, làng này, họ Khuất chả còn ai liên quan đến ông. Thôi thì giời cho cô đơn đến lúc nào thì biết lúc ấy. Cho đi gặp đấng sinh thành khi nào thì gặp.

*

*    *

Lại nói anh chàng Kiên chồng chị Biên, lửng trưa, độ 10 giờ, đứng trên giàn giáo thấy mắt nháy liên hồi, rồi hoa mắt chóng mặt. Vội vàng tụt xuống đất, móc điện thoại trong túi quần ra, anh gọi về cho vợ. Nhưng mà điện thoại hết tiền, bấm vay được 5 nghìn, vừa nhận tin nhắn thì cai công trình gọi đi xuống xi. Kiên cáu. “Gọi phụ đi mà xuống, sao gọi thợ?”. Gã cai công trình trạc tuổi Kiên, cười nhăn nhở. “Đi giúp nhau mà. Trả công tử tế. Buổi sáng nay vẫn chấm công. Ai để thiệt đâu mà”. Thế thì đi. Kiên làm rốn một giờ bằng vợ ở nhà lê la chợ quê cả mấy ngày.

Bốn thợ và ba phụ xuống xong hai xe xi măng thì trưa lòi. Tắm rửa qua loa rồi ăn cơm. Làm vài mắt cho giãn gân cốt, xong về lán ngủ như chết. Chiều, đang làm thì có điện thoại. Kiên hốt quá, tắt vội đi. Vợ gọi. Xuống đến mặt đất, gọi lại cho vợ, biết tin hai đứa con đi đâu không tìm thấy, Kiên xây xẩm mặt mày. “Đang cơn dịch, trẻ con nghỉ học ở nhà, đã dặn rồi mà cơ sự nào ra thế? Đã bảo rồi, tiếc gì mấy quả bí, vài sọt rau. Cứ tham cơ. Thằng anh mười, con em bảy, dắt nhau đi đâu mà không nói với bà. Hay là...”. Gọi lại thì đã hết số tiền vay. Công trình giữa rừng, sinh thái mà lại. Chả có quán xá gì. Tốt nhất là về. Xin về đi tìm con. Nghĩ lại những linh tính lúc gần trưa, tay chân Kiên lóng ngóng, thừa thãi không biết làm gì. Mấy ông xây cùng phải gấp quần áo và mượn xe máy đưa Kiên ra bến xe thành phố.

Tháng 3, hoa cải lác đác vàng trong vườn. Ông Thinh lang thang ngoài sân ngõ. Trưa nay ông không ngủ, nhường giường cho hai đứa trẻ. Nhìn hai đứa ngủ ngon lành sau khi ăn no, ông thấy sướng thế. Lúc gần 10 giờ sáng, đang đan lồng gà ở sân, thấy tiếng con Mực sủa ầm ĩ bên vườn nhà hàng xóm, phía ngoài bờ sông, ông vội buông dao chạy ra. Nhìn xuống dòng nước thấy một đứa trẻ con đang giã gạo, ông vội nhảy xuống, bơi ra, kéo con bé vào bờ. Đang dốc ngược con bé lên thì thằng bé này ướt rượt ở đâu chạy đến, tay cầm đoạn cành cây khô. Chắc nó tìm cách cứu em. Môi nó tái mét. Thấy ông già lạ hoắc đang vác em nó lên mà dốc ngược, nó há hốc miệng nhìn. Sau đó, nó theo ông về nhà.

Con bé chỉ nằm một lúc rồi ngọ nguậy, gọi “anh Huy ơi!”. Cả hai anh em đều lọt thỏm trong những cái áo của ông. Còn quần áo chúng thì ông giặt phơi ngoài sân. Từng cứu hơn chục đứa trẻ con đuối nước ở vùng này nhưng lần đầu tiên ông gặp một ca may mắn như thế. Thằng anh nhảy xuống sông tắm vì tập tọng biết bơi. Con bé em thấy thế cũng nhảy xuống. Trong khi ăn cơm, thằng bé kể là nó được bố dạy bơi còn em gái là do nó dạy, mới học được ba buổi, tưởng là em biết bơi rồi nên ra sông bơi cho thích. Nhưng khi gặp nạn thì nó biết sức mình không kéo được em nên bơi vào bờ gọi người. Chắc con Mực nghe thấy tiếng gọi của thằng bé khi nó theo chân hai đứa trẻ lạ từ lúc chúng đi vào khu vườn nhà bên. Ăn cơm xong, con bé em mắt lim dim, ông Thinh thấy thế bảo hai đứa lên giường ngủ đi một giấc rồi về, cũng là đợi khô quần áo. Trong nhà ông Thinh có ba con vật. Cả ba con đều đi lạc ra bờ sông này, gặp nạn, được ông cứu rồi ở lại. Đấy là con mèo khoang. Từ ba năm trước, một đêm mưa gió, nó chui vào gầm giường, hai mắt xanh lét và kêu như mèo hoang. Sáng hôm sau, ông nướng con cá nhỏ, để lên đĩa và đi ra ngoài. Con mèo ăn sạch. Sau ba ngày cho ăn uống, con mèo chui ra khỏi gầm giường, đứng cạnh ông, chìa một bên hông ra, lộ vết chém sâu đang nhiễm trùng. Ông Thinh tìm lá thuốc trong vườn giã ra, đắp cho nó. Sau đó vết thương liền hẳn, nó quấn quýt ông không rời.

Con Mực thì thê thảm hơn. Độ tháng 3 năm ngoái, nó thất thểu đi vào sân nhà ông. Người chốc lở, xương sườn phơi ra, mắt lờ đờ, cứ đi vài bước lại khuỵu xuống một bước. Ông biết ngay là chó đói. Ông cho nó ăn, uống và vứt cho cái áo cũ làm ổ ngoài đầu hè. Nó ở vạ luôn từ đó đến giờ. Nhiều lần ông bảo: “Mày về với chủ mày đi chứ”, con Mực chỉ ve vẩy đuôi, cái đuôi nó như bảo với ông rằng đây là nhà tôi, ông là chủ của tôi. Giờ thì nó béo mẫm, đen nhánh, hai chục cân có dư chứ chả hom hem như độ trước. Nhất là con Khoang, nhìn cái cách nó ngồi chĩnh chện trên cái ghế của ông mà rửa mặt, vuốt râu thì có khi nó còn giống chủ nhà hơn cả ông.

Mới độ trung tuần tháng 9 năm ngoái, vào một đêm trời có sao sáng, có cả trăng, sông chảy rất êm, lúc gần hai giờ sáng thì ông nghe tiếng con Mực sủa gay gắt như có trộm vào sân. Được hay anh chàng hàng xóm cờ bạc trong làng giờ mới về. Không hẳn. Là anh ấy thì con Mực chỉ hực lên vài tiếng như cảnh báo là anh về rất muộn thôi, chứ không sủa như gọi ông dậy như thế. Rồi ông thấy cả tiếng con Khoang ngao ngao, ông mở cửa đi ra sân, xách theo cái đèn pin cho chắc ăn. Dưới trăng, ông nhìn thấy một con khỉ mốc mặt ngồi vắt vẻo trên buồng cây cau trước sân. Chắc nó hãi con Mực mà đu lên đấy. Ông quát con Mực. Con Mực dừng sủa, đứng cạnh ông nhìn lên chăm chú. Độ nửa giờ sau thì con Mốc tụt xuống, tay cầm theo quả cau già, ngồi ở giữa sân, nhìn ông và hai đệ tử như thăm dò. Ông vào nhà, chắp tay vái ba vái rồi xin nải chuối thắp hương lúc sáng trên bàn thờ xuống. Ông vặt hai quả chuối để lên nóc bể nước mưa rồi đi vào nhà ngủ.

Ngày hôm sau, rồi sau nữa, cả nải chuối ngót hai chục quả chín ngọt lừ, béo con Mốc hết. Ông cũng chả xích con nào cả. Chỉ dùng cái sự đối đãi mà giữ chân chúng. Vì ông cô đơn quá. Trong suốt cuộc đời cô đơn dằng dặc, có bao nhiêu con vật đã đến đây, tá túc ở đây, ông đều cho ăn, cưu mang. Có con thì chủ tìm được. Có con tự đi tìm chủ. Có con thì bị bắt mất. Có con ốm chết. Ông cũng buồn lắm. Nhưng buồn mãi cũng quen.

Những con vật là một nhẽ. Còn đây là hai đứa trẻ. Lần đầu tiên có hai đứa trẻ trong ngôi nhà bé tí, cũ kỹ của ông. Lần đầu tiên có hai đứa trẻ ăn cơm cùng ông, bữa cơm đơn giản chỉ có bát canh rau tập tàng và đĩa cá kho. Lần đầu tiên có hai đứa trẻ ngủ trên cái giường ông vẫn ngủ. Ông đếm từng tiếng đồng hồ tích tắc. Nấn ná muốn giữ lấy từng tích tắc. Trong rủi có may. Không có cái duyên trời định, làm sao có cảnh này. Những lần cứu người khác, đa số nạn nhân được đưa đi bệnh viện, hoặc về nhà. Thảng hoặc có người qua lại biếu chút quà Tết. Nhưng ở ăn với ông bữa cơm để trả ơn thì chưa từng ai. Trưa nay, khi ông mời chúng ở lại ăn cơm, lúc ấy cũng muộn rồi. Thằng anh bảo: “Chúng cháu phải về”. Con em thì kêu đói và hỏi ông một câu: “Thế chúng cháu ở lại ăn cơm thì ông có vui không ạ?”. Ông gật đầu. “Vui chứ, ông vui lắm”. Thằng anh thấy thế cũng ở lại. Con em còn hứa một câu: “Sau này, anh em cháu lại ra chơi với ông nhá”. Trẻ con bây giờ khôn thế đấy. Ăn xong thì ngủ lăn ra. Chắc cô cậu mệt quá rồi. Giá có thể, ông muốn giữ chúng ở chơi vài ngày. Nhưng hai đứa còn có bố mẹ, ông bà. Trưa nay chúng không về nhà, chắc mẹ chúng hết nước mắt. Ông đã đánh cắp của bố mẹ chúng vài giờ đồng hồ rồi. Nghĩ đến đó, lại nhìn bóng nắng ngoài sân, ông vội vàng đánh thức hai anh em dậy, bảo thay quần áo của chúng vào, hơi ẩm tí thôi, rồi ông đưa về. “Khu nhà chúng bay ở ông lạ gì. Chỉ hơn hai cây số một tí, đi bộ khỏe chân. Cùng xã với nhau mà”.

Ra khỏi cổng, ông vuốt đầu con Mực khi nó chạy theo ông. “Ở nhà trông nhà, tôi đi công chuyện tí rồi về. Cấm đi theo”. Ba ông cháu vừa đi vừa nói chuyện. Giờ ông mới biết thằng anh tên Huy, con em tên Hằng. Qua khỏi đê, cả hai anh em reo lên. “Ông đi công chuyện đi, bọn cháu tự về được, con đường này anh em cháu vẫn đi học mà”. Ông Thinh dặn: “Ừ, đi cẩn thận. Từ giờ tuyệt đối không được ra sông khi không có người lớn, nghe chưa? Học bơi thật giỏi vào thì mới được ra sông. Bơi giỏi ở sông rồi mới ra biển”. Hai đứa vâng dạ răm rắp rồi dắt tay nhau qua đường, đi về phía làng.

Kiên đi xe ôm về đến nhà thì đã thấy một nhà người. Nhưng thật may, nét mặt ai nấy tươi vui. Vậy là các con anh đã về. Nhìn thấy hai con lành lặn nguyên vẹn, Kiên mừng ứa nước mắt.

Trông thấy bố về, hai anh em chạy ra đón. Con bé Hằng rối rít khoe: “Bố ơi, ngoài đê có một cái sông dài lắm”. Thằng Huy góp vào: “Có cả một con khỉ mặt trắng biết đi bằng hai chân trông “chất” lắm bố ạ”. Con Hằng vẫn náo nức: “Với một con chó đen sì, to đùng nhưng rất hiền anh Huy nhề. Con mèo thì đẹp ơi là đẹp”. Thằng Huy cắt lời em: “Ngoài đê còn có một ông già tóc bạc phơ nấu thức ăn rất ngon bố ạ. Ông cứ bảo bọn con ăn nhiều vào cho khỏe. Hôm nào bố cho anh em con ra nhà ông chơi nhé”.

Trẻ con lạ thế!

Truyện ngắn của TỐNG NGỌC HÂN