“Con trai người Pa Dí” là tên một bài thơ mà nhà thơ tự hào không chỉ cá nhân mình, mà là tự hào về những chàng trai dân tộc mình, những con người có vẻ đẹp mạnh mẽ, cường tráng. Nếu nhà thơ Y Phương, người dân tộc Tày tự hào Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương, thì Pờ Sảo Mìn hãnh diện: Con trai trần trong mặt trời nắng cháy/ Ép đá xanh thành rượu uống hằng ngày... Và khi nói về mình, về  những người con trai Pa Dí thì lúc nào ông cũng hết sức hồn nhiên, thẳng thắn, tự hào:

Con trai người Pa Dí

Đã đi là đến

Đã đến là ở

Đã ở là ở rất lâu...

Đã yêu là yêu nhiều, yêu mãi...

Đi chín phương là chín phương bè bạn

Đến mười phương là mười phương thương nhớ

leftcenterrightdel
Ký họa chân dung Pờ Sảo Mìn. Tranh của TRẦN NHƯƠNG

Quả là một cách nói rất độc đáo, rất riêng về mình và dân tộc mình. Như trong một bài thơ khác, nhà thơ viết về những người con gái dân tộc mình cũng là những con người thật đẹp, thật đáng yêu: Tóc dài như suối, mắt sáng như sao/ Nghe em nói giọng chim mi ngọt ngào... Đặc biệt, nói về dân tộc mình, Pờ Sảo Mìn có những câu thơ đẹp và hình ảnh lạ. Ông ví dân tộc thiểu số Pa Dí như một cái cây lớn trong rừng có hai ngàn lá: Một cây đứng trong muôn rừng cây đứng/ Dân tộc chỉ có hai ngàn người/ Biết gọi gió, gọi mưa, gọi nắng/ Chắn suối, ngăn sông nước ngược dòng/ Ngô, lúa cười vui tận chân trời đó...

Nhà thơ Xuân Diệu đã từng ví mình như một con chim ca hát: Tôi là con chim đến từ núi lạ/ Ngứa cổ hát chơi... Có thể nói, Pờ Sảo Mìn cũng là một con chim lạ như thế. Tuy rằng nhà thơ khiêm tốn coi mình chỉ là một chú gà rừng: Tôi chỉ là con gà rừng/ Trên triền núi cao hoang vu/ Uống sương mù và ăn sỏi đá/ Và cất tiếng gáy chẳng còn ai xa lạ... Nhưng gà rừng thì cũng là một loài chim chứ sao! Và tiếng gà ấy là tiếng chim lạ của rừng xanh, tiếng cất lên từ niềm kiêu hãnh của các dân tộc thiểu số ở Mường Khương miền Tây Bắc.

Người miền núi thường có lối tư duy cụ thể, những liên tưởng, so sánh với những sự vật gần gũi quanh mình. Cây rừng, dòng suối, ngọn núi, tảng đá, đồng cỏ, con trâu, con hổ, con voi… Nhưng chỉ riêng nhà thơ Pờ Sảo Mìn mới so sánh dân tộc mình với một cái cây lớn “hai ngàn lá”, một hình ảnh so sánh độc đáo và mới lạ.

Viết về mình, nhà thơ “khoe” rất hồn nhiên sức mạnh của người con trai Pa Dí trong so sánh với những gì gần gũi:

Tuổi hai mươi anh mạnh như hổ

Khỏe như trâu

Tuổi bốn mươi anh mạnh như gấu

Khỏe như voi

Tuổi sáu mươi sức anh vơi dần

Có lần Pờ Sảo Mìn so sánh mình trong sự tương phản với một cô gái trẻ và tất nhiên là đẹp: Em ngồi đó/ Một đồng cỏ xanh nõn non tơ/ Tôi ngồi đây/ Một cây thông rừng già bất động.

Các nhà thơ viết về vợ, ca ngợi vợ cũng đã nhiều, nhưng có thể nói chưa có ai viết với giọng điệu ca ngợi táo bạo và độc đáo như Pờ Sảo Mìn, khi anh gọi vợ là mẹ, là nguồn gốc mọi bài ca anh viết:

Tôi gọi em đích thực: Mẹ ơi

Mẹ của các con tôi và mẹ của chính tôi

Không có vợ không có câu thơ sinh nở

Không có vợ không có bài ca để hát

Thơ Pờ Sảo Mìn có sự kết tinh của những cách nói giàu hình ảnh ví von, so sánh trong thơ ca dân gian miền núi, đồng thời có sự trong sáng, khoáng hoạt của một người chịu khó học hỏi, chịu khó làm giàu cho vốn liếng văn hóa của mình, như anh từng bộc bạch: Bảy năm học bên Tây/ Ba năm học bên Tàu/ Mười năm học bên ta/ Bây giờ tuổi đã già/ Chữ nghĩa quên hết cả/ Chỉ còn nhớ hai chữ: Làm CON NGƯỜI viết HOA.

Ngoài hình ảnh thiên nhiên phóng khoáng, độc đáo của miền núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng, thơ của Pờ Sảo Mìn còn giàu chất trí tuệ, giàu tính triết lý. Đó là một trong những nét nổi trội của thơ anh. Rễ cây quá ngắn/ Rễ người lại quá dài/ Xin đừng dại mà hại lẫn nhau/ Cứ yêu nhau như mối tình đầu... Hoặc như khi ông nói về 3 nỗi bất hạnh của con người là sự nghèo khó, khi người trên bất chính và sự tan vỡ gia đình cũng bằng một sự liên tưởng ví von hết sức độc đáo:

Đời người sợ nhất ba cái thủng:

Thứ nhất là sợ thủng quần

Thứ hai sợ thủng nóc nhà trên cao

Thứ ba sợ thủng đít chảo đang đun...

Tình yêu thơ ca mạnh mẽ đã khiến một chàng trai Pa Dí dù được học hành ở nước ngoài 7 năm về máy móc, nhưng lại bỏ hết để theo nghiệp làm thơ và dành cả đời cho công việc đó: Năm mươi năm tôi đã lang thang/ Tìm rượu ngon, kiếm thơ phú/ Con đường sao dài vô tận. Ông nói về mình khi còn trẻ: Trên đường dài thiên lý/ Cứ thế phi bay… Cứ thế phi bay... Nhưng khi đã nhiều tuổi rồi thì Mủa say say (đi nhanh nhanh). Nhưng ở tuổi nào thì thơ ông vẫn kết hợp giữa “đi” và “bay”, giữa dân tộc và hiện đại:

Mủa say say - Đi phải đi nhanh nữa

Mủa say say - Bay nhanh nhanh

Bằng tốc độ mây

Bằng tốc độ gió

Như tia nắng mặt trời...

Pờ Sảo Mìn đã không uổng công khi chọn cho mình con đường dài dằng dặc đầy khó khăn cực nhọc là sáng tạo thơ ca. Ông đã xuất bản nhiều tập thơ: “Cây hai ngàn lá”; “Bài ca hoang dã”; “Mắt lửa”; “Cung đàn biên giới”; “Con trai người Pa Dí”; “Mắt rừng xanh”; “Đôi cánh chim rừng”; “Tiếng chim cao nguyên”; “Mủa say say”... Thơ ông đã giành được 5 giải thưởng của Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam và UBND tỉnh Lào Cai. Trong các nhà thơ người dân tộc, có lẽ chỉ có Pờ Sảo Mìn người Pa Dí ở Lào Cai và Triệu Lam Châu người Tày ở Cao Bằng là những nhà thơ khi đã thành danh đã không “xuống núi” như nhiều đồng nghiệp, mặc dù đấy cũng là hai nhà thơ người dân tộc thiểu số từng có nhiều năm sinh sống và học tập ở nước ngoài, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa trên thế giới. Có lẽ đó cũng là một yếu tố tạo nên những vần thơ vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa phóng khoáng, hiện đại như thơ Pờ Sảo Mìn.

PGS, TS VŨ NHO