Chợt nhớ chàng trai Tạ Vũ khi xưa lên miền Tây bằng tàu hỏa mà thấy mình và bạn biến thành con tàu… “bay” trên đường ray: Ba chiếc vé tàu cựa mình trong túi ngực/ đêm nay, ba con tàu phụt khói, sải cánh trên đường ray… Tôi không có cảm giác mình biến thành cánh chim, hay thành máy bay. Nhưng khi bay vút lên bầu trời tháng Mười trong veo, tôi đã ứa nước mắt vì… trong đầu là hình ảnh cha tôi đứng bên con đê sông Hoàng Long mênh mang nước lụt, trong nắng chiều vàng gắt, lặng lẽ nhìn hút theo bóng người con trai ra Hà Nội để sang tận Liên Xô xa xôi tu nghiệp, thỏa lòng mong ước của mẹ cha.
Những năm 80 của thế kỷ trước, biên giới phía Nam, phía Bắc lại bị đe dọa. Trong muôn vàn khó khăn thì lương thực luôn là một nỗi lo của Nhà nước và của mỗi người. Cơm mậu dịch ở Hà Nội thu 225g tem, được nửa chiếc bánh mì nhỏ và lưng bát cơm. Tâm lý đói thường trực khiến chúng tôi, những người đi làm nghiên cứu sinh năm ấy đã thủ sẵn mỗi đứa mấy chiếc bánh mì. Chúng tôi bay qua Bombay (nay là Mumbai) của Ấn Độ, nghỉ một ít phút rồi bay tiếp một mạch đến Moscow. Trên tàu bay được ăn rất ngon. Xuống Moscow, dù chỉ ăn bánh mì thường của bạn và món cátlet (thịt băm viên, trộn bột mì rán), nhưng chúng tôi thấy vô cùng ngon, cứ như là đại tiệc.
Đoàn nhà văn Việt Nam (tác giả đứng ngoài cùng, bên phải) chụp ảnh kỷ niệm với Chủ tịch Hội Nhà văn Nga Valeri Ganhichev và nhà thơ Oleg Pavykin.
Tôi cùng Cao Gia Nức (môn Sinh học), Nguyễn Việt Hải (môn Toán học) và Nguyễn Văn Khải (môn Vật lý) được phân công về Leningrad. Sau khi nộp giấy tờ, chúng tôi được nhà trường bố trí ở tạm trong khách sạn. Tiền rúp rủng rỉnh, cả bọn mua bánh mì, giò, gà, táo, bia... về liên hoan. Quả thật, từ xứ sở đói khát ngày ấy, chúng tôi thấy mình may mắn như được sống ở thiên đường.
Với tôi, được sang Liên Xô, được sống và học tập ở thành phố mang tên Lênin, thành phố từng là kinh đô thời Pie Đại đế, thành phố từng vượt qua sự phong tỏa của Đức quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, là một sự may mắn. Thêm một sự may mắn nữa là bộ môn tôi học, các giáo sư, tiến sĩ là những người giỏi nhất liên bang. Sách của tổ bộ môn là giáo trình chính thức cho tất cả các trường sư phạm của Liên bang Xô viết.
Chúng tôi lao vào học tiếng Nga và chuẩn bị để thi môn Triết. Phải nói rằng, các bà giáo tiếng Nga là những người rất tận tình và giỏi về phương pháp. Có hai nhà giáo già và một cô giáo trẻ dạy tiếng Nga cho nhóm nghiên cứu sinh Việt Nam và Cuba. Trong số đó, cô Nhina là người chịu trách nhiệm đưa chúng tôi đi học ở các bảo tàng. Chúng tôi thăm bảo tàng căn hộ của A.Puskin, Bảo tàng Nghệ thuật Ermitage, Bảo tàng Nghệ thuật, Bảo tàng căn hộ của M.Dostoevsky… Đến bất cứ nơi nào, việc đầu tiên là cô Nhina chỉ dẫn cho chúng tôi tìm nhà vệ sinh trước. Theo lời cô giải thích, “nếu không lấy nước trong người ra kịp thời thì sẽ chẳng có tâm trạng tốt để nghe và ghi chép”. Cô Nhina còn liên hệ để chúng tôi xuống trường học, nói chuyện với học sinh về Việt Nam. Chúng tôi mượn máy ảnh Zenit của anh bạn Alecxit người Cuba. Cao Gia Nức chịu trách nhiệm chụp ảnh trong suốt buổi “kể chuyện Việt Nam” của nhóm. Kết quả là một cuộn phim 36 kiểu chỉ được một kiểu duy nhất, nhưng khá đẹp. Sau đó, chúng tôi viết bài bằng tiếng Nga kể về cuộc giao lưu, gửi cho tờ báo in ti-pô của trường đăng kèm tấm ảnh. Báo đăng, cô Nhina rất vui.
Nhờ sự tận tụy của các giáo viên tiếng Nga, trình độ nghe nói của chúng tôi nâng lên nhanh chóng. Tuy vậy, hai năm sau ngày chúng tôi tới thành phố, trình độ nghe nói tiếng Nga vẫn thấp. Tôi có dự cuộc bảo vệ luận án của hai người bạn cùng công tác ở Khoa Văn Việt Bắc. Các bạn tôi không phải là nói tiếng Nga mà là lia hàng tràng mấy băng liền. Tôi nghe mà ù cả tai. Còn phục các bạn hơn nữa là họ nghe các câu hỏi của giáo sư phản biện và trả lời… cứ như nói bằng tiếng mẹ đẻ vậy. Bốn năm sau, tôi cũng tự tin nói về luận án của mình. Thậm chí còn “chọc cười” hội đồng bằng những từ lóng của người Nga.
Sau năm học thứ nhất, mùa hè, hầu hết nghiên cứu sinh và sinh viên Việt Nam thường đi lao động ở nông trường, nhà máy để kiếm tiền. Tôi và một người bạn quyết định tham gia chuyến đi quốc tế do Liên Xô tổ chức để mừng thắng lợi của Đại hội Đảng. Không ngờ, chuyến đi lại thú vị và “lãi” lớn. Chúng tôi chỉ mất có 5 kopek đi tàu điện ngầm. Từ đó, tiền ô tô, tiền vé máy bay, tiền ngủ khách sạn, tiền ăn đều được nhà trường “bao” hoàn toàn. Với các bạn châu Mỹ, châu Phi, châu Á, chúng tôi làm thành một đoàn, bay đến Kiev, rồi đi Odessa, đi Kishinev, đi Lvov, đi Erevan… Đến đâu, chúng tôi cũng gặp gỡ, giao lưu, văn nghệ. Ở đâu sinh viên Việt Nam cũng được bạn bè quốc tế hết sức quý mến.
Tác giả (đứng thứ hai, bên phải) cùng các đồng nghiệp Việt Nam trải nghiệm nông dân tại một làng ngoại ô Moscow. Ảnh do tác giả cung cấp
Những năm tháng học tập ở thành phố Leningrad, điều may mắn lớn đối với tôi là được làm việc với Giáo sư, Tiến sĩ M.G.Kachurin, một cây đại thụ trong ngành phương pháp Xô viết. Giáo sư viết nhiều sách, thi thoảng lên truyền hình nói về văn học trong nhà trường. Ông đưa tôi xuống trường dự giờ của Nhà giáo Nhân dân I.Ilin. Tôi nhớ mãi giờ dạy tác phẩm “Chiến tranh và hòa bình” của L.Tolstoi, người thầy giáo tài hoa đó chỉ giảng một đoạn về “Mẩu khoai tây của Platon Karataev”. Ông đi khắp cả lớp nói đầy cảm hứng, đặt những câu hỏi đầy thách thức với học sinh. Chúng tôi như bị thôi miên trong suốt hai tiết học. Ấn tượng mạnh mẽ nhất của tôi với Giáo sư hướng dẫn khoa học không chỉ là trí tuệ của thầy, mà còn ở phương pháp làm việc. Ông động viên, khích lệ tôi. Khi tôi viết luận án, ông chỉ sửa chữa, thêm bớt vài từ, nhưng tôi thấy quả thực, đoạn văn nhàng nhàng của tôi đã được nâng tầm khác hẳn. Chính Giáo sư hướng dẫn, bằng uy tín của mình và chắc thầy cũng tuyệt đối tin tưởng vào anh học trò người Việt, đã đăng ký để tôi tham dự Hội nghị khoa học về “Đọc diễn cảm” toàn liên bang tổ chức ở Moscow. Ở đó, tôi đã trình bày về cách đọc thơ, ngâm thơ, hát thơ và lẩy Kiều có minh họa làm cho mọi người thích thú. Cũng chính ông đã khích lệ, động viên tôi viết báo bằng tiếng Nga. Khi ấy, phần lớn nghiên cứu sinh nước ngoài đều bảo vệ “suông”. Nhưng nhờ có Giáo sư, trong tóm tắt luận văn phó tiến sĩ của tôi có ghi tên 5 bài báo (2 bài ở Việt Nam và 3 bài ở Liên Xô). Đúng là “không thầy đố mày làm nên!”. Được làm việc với những người thầy giỏi là một may mắn lớn với mỗi người đi học.
Trước khi đi nghiên cứu sinh, tôi đã từng nhiều năm làm Bí thư Liên chi đoàn Khoa Văn, tham gia Ban Chấp hành Đoàn Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc với tư cách Thường vụ. Với lý lịch như thế nên tôi “bị” bầu vào Ban Chấp hành Đảng ủy thành phố và được giao đảm nhận chức Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của thành phố. Tôi nói rằng nhiệm vụ của tôi là làm luận án, chứ không phải là làm bí thư, tuy vậy, tôi vẫn vui vẻ nhận nhiệm vụ. Các bí thư tiền nhiệm khi đi họp bí thư Đoàn các nước khối xã hội chủ nghĩa thường lấy một sinh viên làm “phiên dịch” cho chắc ăn. Tôi thì tự tin đi một mình. Trường Đại học Lâm nghiệp là trường đỡ đầu cho Việt Nam. Các hoạt động của sinh viên, thanh niên đều diễn ra ở trường này. Các anh Ban Cán sự Đoàn ở Moscow về thành phố làm việc với tôi đều để lại ấn tượng tốt. Hồi đó, tôi từng tháp tùng anh Lê Thanh Đạo, Bí thư thứ hai Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh từ Hà Nội sang thăm thành phố. Nhờ công việc tháp tùng ấy nên tôi mới có dịp đến lều cỏ của Lênin ở Radolip, một di tích lịch sử gắn liền với hoạt động của Lênin và cuộc cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.
Những năm tháng sống và học tập ở thành phố mang tên Lênin-thành phố cổ kính của nước Nga với biết bao nhiêu thắng cảnh thần tiên cùng nhiều di tích lịch sử liên quan đến văn hóa, văn học Nga; được mơ mộng trong những “đêm trắng” thật sự, được chơi đùa với tuyết, được đi pic-nic trong rừng Nga thân thiện đẹp như tranh, được đến ngôi nhà gỗ ngoại ô của người bạn Nga trong tổ bộ môn uống voska tự nấu, được nghỉ ngơi ở nhà nghỉ “Sóng vỗ bờ” dành cho sinh viên và nghiên cứu sinh nước ngoài; được cùng các bạn Nga làm việc và học tập... là một trải nghiệm vô cùng quý giá. Tôi nghĩ, các bạn sinh viên, các bạn nghiên cứu sinh ở thành phố Leningrad và nhiều thành phố của Liên bang Xô viết thời đó cũng cảm nhận điều đó như tôi.
May mắn làm sao, gần hai chục năm sau, năm 2010, tôi được tham gia đoàn nhà văn Việt Nam sang thăm Nga, do nhà văn Lê Văn Thảo làm trưởng đoàn, cùng nhà văn Hoàng Minh Tường, nhà văn Y Ban. Chuyến đi 15 ngày qua Moscow, qua Vandai, qua Veliky Novgorod, qua Sankt Petersburg, qua Xuzdan đã để lại trong chúng tôi những ấn tượng tốt đẹp về sự hồi sinh của nước Nga sau khi Liên Xô tan rã. Trong chuyến đi ấy, chúng tôi đã tham gia nhiều hoạt động văn hóa, thăm thư viện, trường học, bảo tàng, xem ba lê... Nhà văn Lê Văn Thảo thay mặt Hội Nhà văn Việt Nam ký biên bản hợp tác giữa Hội Nhà văn Việt Nam với Hội Nhà văn Nga.
Thành phố Leningrad bây giờ đã quay trở lại tên cũ là Sankt Peterburg. Trường Đại học Sư phạm Quốc gia Leningrad mang tên A.I.Ghecxen giờ đổi thành Trường Đại học Tổng hợp Ghecxen. Tổ bộ môn Phương pháp của tôi cũng đổi tên thành môn Công nghệ và Phương pháp. Nhưng đại lộ Nhevski vẫn còn đó. Cung điện Mùa Đông, Cung điện Mùa Hè vẫn còn đó. Tượng Pie Đại đế vẫn còn đó bên bờ Nheva. Nhà thờ Kazanski vẫn còn đó... Và vẫn còn đó vĩnh viễn tấm lòng nhân hậu của người dân Nga. Còn đó vĩnh viễn lòng biết ơn của tôi với đất nước của các nhà văn, nhà khoa học lừng danh thế giới, đất nước của người đầu tiên bay vào vũ trụ, đất nước của những người bạn vô tư giúp đỡ Việt Nam.
Và với riêng cá nhân tôi, nhờ đất nước đó mà con trai một nông dân hiền lành, chân chất ở vùng chiêm trũng Ninh Bình trở thành tiến sĩ, thành chuyên gia phương pháp, thành nhà văn, thành dịch giả... Bởi thế mà với tôi, ký ức về nước Nga luôn là những dòng ký ức mượt xanh!
Bút ký của VŨ NHO