- Trái nầy tên là gì, chồng?

- Trái sổ! Anh lượm trước nhà chú Năm Trưởng ban. Cây sổ cạnh nhà ổng rụng trái vàng đầy nhóc, thấy mọi người ăn khen ngon, mang về cho má nó ăn thử.

Thành ngước đôi kính cận nhìn vợ, cười. Tuy có hàng ria lún phún nhưng năm nay anh mới hai mươi mốt tuổi, hơn vợ ba tuổi. Có tiếng trẻ cựa mình, o oe khóc. Người vợ với tay đưa võng, hát: Hò khoan chúng em khua mái chèo/ Đưa các anh qua dòng sông lạnh lẽo/ Đường hành quân các anh đi khắp nẻo/ Vì quê hương mà anh chẳng ngại gian lao…

- Thấy ghét chưa! Ai lại ru con bằng bài hát của người ta?

- Tại nghe bài nầy nên mới thương người ta đó nghen.

leftcenterrightdel
Minh họa: QUANG CƯỜNG

Thành dòm vô cái mặt bé xíu của con gái, thấy sao nó đẹp giống má dữ. Gái cưng của ba! Ráng hay ăn chóng lớn, mai mốt lớn xinh đẹp như má, rồi cũng vô văn công Giải phóng nghen con!

Cúc nhéo chồng:

- Tới hồi con gái lớn, thống nhất Bắc Nam rồi ba!

Con bé chu đôi môi hồng nhỏ, ê a tiếp chuyện với má, chân tay chòi đạp trên võng. Thành mê mẩn nhìn con gái, rồi nhìn sang vợ. Mới đó mà đã ba năm Thành về nước tham gia kháng chiến. Từ một anh thợ may ở chợ Ô-rốt-xây bên thủ đô Nam Vang, tham gia hoạt động đội văn nghệ Việt kiều, nay Thành đã trở thành một nhạc sĩ cách mạng. Anh mong đất nước sớm được thống nhất, để có cơ hội ra Bắc, tìm về thăm quê nội ở Nam Định, quê ngoại ở Hưng Yên, những địa danh chỉ nghe qua lời kể của cha mẹ...

Cuộc tình của cặp trai tài, gái sắc với cái kết vợ chồng có lẽ là hơi sớm. Nhưng Thành và Cúc đã quyết định báo cáo tổ chức để đến với nhau. Chẳng ai muốn mất ai, còn chiến tranh thì quá tàn khốc. Khi gặp cô nữ diễn viên mười tám tuổi, tâm hồn chàng nhạc sĩ trẻ ngất ngây say đắm...

Đêm. Tiếng lá rụng từng đợt xuống mặt đất xào xạc. Con nhỏ đã ngủ say, Cúc nhẹ xuống khỏi võng, bước qua nằm tráo đầu với chồng.

- Con nhỏ chịu ăn lắm, mà không đủ sữa cho con bú anh à!

Thành trở mình, ôm hai chân vợ, xoa xuýt.

- Cực quá! Tội nghiệp hai má con! Để anh kiếm mấy sợi dây thắng xe đạp, làm bẫy bắt cò niểng…

- Thôi! Anh thì biết gì mà bẫy. Không nghe mấy bữa nay máy bay bỏ bom ì đùng trên phía bắc căn cứ sao? Em nghe mấy cô Ban Tuyên huấn nói, cả tuần nay, chim bồ chao hay bay lên, kêu dữ lắm. Hổng chừng bọn biệt kích, thám báo đang rình mò…

Thành thở dài. Biết làm sao đây? Tình yêu vốn dĩ tạo sức mạnh cho cuộc sống, nhưng nuôi dưỡng tình yêu trong chiến tranh thiệt là khó. Huống hồ hai vợ chồng còn trẻ, lại có con nhỏ bên mình. Sắp tới, Đoàn văn công sẽ chia từng mũi xung kích đi phục vụ các chiến trường, mang con nhỏ theo cực quá. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, như hợp âm quãng ba, có nốt trầm. Hợp âm ấy cứ reo rắt trong đầu, khi thì sáng bừng lên khoảng cửa sổ nhỏ, lúc vón cục lại nỗi ám ảnh, lo toan.

- Anh bàn vầy được không má nó: Hay mình đem con gởi về ngoại dưới Mỹ Tho?

Cúc rờ rờ từng ngón chân chồng, bẻ kêu lục cục.

- Em cũng tính tới nước đó! Nhưng chưa dám vì con còn nhỏ quá. Nó đang bú…

Tiếng thở dài bỗng cùng hắt ra, quyện với nhau.

Nỗi lo của hai vợ chồng trẻ thật nghiệm, khi mấy bữa sau bọn “đầm già” lượn vè vè trên ngọn cây cao, thả trái khói những chỗ nó nghi ngờ. Máy bay khu trục nhào tới ném bom, bắn rốc-két “cảo đùng-cảo đùng”. Cuối năm, chuẩn bị lương thực, thực phẩm cho Tết, cơ quan cử đám thanh niên khỏe mạnh xuống Bến Ra tải gạo về cứ. Lúc đi không sao, lượt về nửa đường bị bom đánh uỳnh uỳnh sau lưng, chạy chí chết. Chú Năm Tròn phụ trách cơ quan lo quá, chạy xuống hét lính: “Không xuống hầm kịp thì nấp sau gốc cây mấy đứa ơi!”. Sau trận bom, Thành từ sau một gốc cây dầu chạy qua chỗ chú Năm Tròn.

- Trời đất! Bom đạn vầy, chú Năm xuống làm chi?

- Tao lo cho tụi bây muốn chết, ngồi nhà sao được. Mà vợ chồng bây nữa, làm sao gởi con nhỏ về quê đi. Sắp ác liệt rồi đó!

Thành ấp úng:

- Tụi con cũng tính… gởi cháu về ngoại… dưới Mỹ Tho!

- Vậy cho địa chỉ đi! Để tao nhờ giao liên móc nối cho.

- Dạ! Bà Mười Sang, xã Long Khánh, huyện Cai Lậy...

Cả đêm đó, hai vợ chồng không ngủ, cứ loay hoay xếp đi, xếp lại mấy bộ đồ của con bỏ vô chiếc bòng. Con bé nằm dang tay chân, ngủ vô tư, như không biết đến cuộc chia tay ngày mai với ba má.

- Hay để con ở lại hả chồng? Xa con, em không chịu nổi...

Mắt Thành đỏ hoe. Anh cũng đâu muốn xa con. Nhưng giữa đạn bom, nguy hiểm như vầy, yên tâm sao được.

- Thôi quyết vậy đi má nó! Nơi chiến trận không hợp với con nít.

- Cưng của má ơi! Con về với ngoại, ráng hay ăn, mau lớn. Chừng nào có điều kiện, ba má về thăm cưng nghen!

Những câu nựng con hòa với nước mắt. Ngoài trời đêm, văng vẳng tiếng ùng oàng, giăng giăng ánh chớp của bom B-52. Hình như địch đánh phá hướng núi Thập Sơn.

- Cho anh ẵm con chút...

- Thôi! Con đang ngủ. Ngày mai đường xa, nó đỡ mệt.

Rồi cũng không ngủ nghê gì được. Bốn giờ rưỡi sáng, hai vợ chồng đã đeo giỏ, bồng con ra điểm tập trung ở trạm V21. Có khoảng mười người đứng ngồi trên gốc cây, xì xầm nói cười. Mùi thuốc lá khen khét tỏa trong sương sớm. Người giao liên dẫn đường bước ra hỉ mũi xoèn xoẹt, là một nam thanh niên ốm và lùn, giọng nghèn nghẹt:

- Bữa nay có bảy cán bộ đi công tác và năm đồng chí đi móc nối gia đình tới thăm. Đề nghị bám sát đội hình. Chúng ta cần khẩn trương tới trạm Tà Băng trước bảy giờ sáng, đề phòng địch đổ bộ càn bất ngờ.

Cúc ôm chặt con gái vào ngực. Nó vẫn ngủ say suốt từ đêm tới giờ. Muốn đánh thức con nhỏ dậy cho nó bú mẹ một miếng, nhưng lại thôi. Thành đeo chiếc bòng trên vai, đi sát bên vợ, lắng nghe tiếng thở đều và nhẹ của đứa trẻ. Vùng đất giáp ranh biên giới Căm-pốt lờ mờ trong sương sớm, thanh thản tiếng gà gáy le te. Người giao liên lùn tịt cắm cúi bước đi đằng trước bỗng ho khan, rồi quay lại nhắc đoàn người:

- Ở đây vẫn là vùng an toàn, có chuyện trò, ca hát gì xả hơi thì làm tới! Một giờ nữa gần tới Tà Băng, yêu cầu bà con im lặng cho.

Có tiếng ai đó phàn nàn:

- Còn nửa tháng nữa là Tết, đi đợt này không biết có kịp về đón xuân ở cứ hay ở lại Long An đây!

Tiếng phụ nữ nhẹ nhàng:

- Làm bộ hoài ông kẹ! Ăn Tết đồng bằng nhiều mồi, lắm rượu. Sướng muốn chết còn rên…

Thành lại ngó nghiêng, hỏi vợ:

- Con nhỏ thức chưa em?

- Chưa! Tội nghiệp… nó ngủ say quá!

Lòng Cúc rối bời. Quãng đường từ đây về Mỹ Tho thiệt xa xôi, biết con mình có làm sao không? Hai người chỉ được báo là giao liên đã móc nối với gia đình, chứ không biết ai sẽ lên rước đứa bé. Bà ngoại hay dì Ba sẽ đi? Ai cũng được. Cầu cho đi đường bình yên, bé sớm về với ngoại.

- Dừng lại!

Người giao liên đột ngột ra lệnh. Cả đoàn người đứng sững, chưa hiểu chuyện gì thì nghe văng vẳng có tiếng trực thăng. Tiếng máy bay ngày một rõ, đạn đại liên bắn vãi theo triền sông, rồi máy bay phành phạch dừng lại cánh đồng phía trước. Có người nhìn đồng hồ. Chưa tới sáu giờ sáng. Tiếng chửi thề nho nhỏ:

- Bữa nay sao nó kiếm chuyện sớm dữ vậy?

Chỗ bọn giặc đổ quân cách đoàn công tác chưa tới trăm mét. Tiếng bọn giặc la ó, hò hét ầm ĩ. Chúng lò dò tiến về phía bờ sông, bắn loạn xạ. Tình thế vô cùng nguy hiểm. Đi tới thì đụng giặc, rút lui thì bị lộ. Người giao liên quỳ gối ghìm súng về phía địch, một tay khoát khoát chỉ xuống triền sông. Mọi người hiểu ra rất nhanh, dưới mé sông là một dề lục bình lớn. Tất cả ào xuống nước, lấy lục bình che lên đầu. Nếu bọn giặc tới nơi, có nghi ngờ mà xả súng xuống thì coi như cầm chắc cái chết, nhưng tình thế này không còn sự lựa chọn nào nữa.

Nước sâu, ngập tới ngực. Ai cao quá thì ráng cúi thấp, ngửa mặt đắp lục bình lên trên. Sóng nước dập dềnh, xấp xõa níu những làn tóc chấp chới. Địch đang tiến lại gần, đã nghe rõ bọn bộ binh hò nhau qua sông bóp mũi mấy tên Việt Cộng nhãi nhép. Súng địch nổ như vãi trấu bên bờ sông, vô bất kỳ chỗ nào chúng nghi ngờ. Mấy dề lục bình dập dềnh cách chân chúng chỉ ba chục mét. Hơn chục con người nín thở, lo thắt ruột. Sự sống chết trong gang tấc, chỉ cần một sơ suất nhỏ. Thành lúc nãy đã nhanh tay kéo lục bình che kín vợ, con. Hình như tiếng súng nổ loạn làm đứa bé thức giấc. Ban đầu nó chòi đạp hai chân dưới nước, quơ hai tay ngột ngạt. Hai vợ chồng cùng xoa đầu con, trong nỗi lo sợ tột cùng. Cúc bặm chặt môi, lấy tay bụm miệng con lại, cô cảm thấy hai bàn chân đứa bé đạp cuống cuồng dưới nước, ngay sát bụng mẹ. Thương con, cô vội buông bàn tay ra. Tiếng con bé sặc sụa, rồi khóc ré lên. Chắc cả đoàn công tác đều nghe tiếng khóc ré đó. Ai cũng cầm chắc cái chết.

Cúc vội lấy tay xoa xoa theo chiều mũi và miệng con gái. Nó ừng ực, ngột ngạt, rồi o oe khóc.

- Trời ơi! Con ơi!

Cúc kêu thầm trong bụng. Nếu có thể vạch áo mà cho con nhỏ bú thì ổn, nhưng nước ngập gần đến cổ, làm sao đây? Con bé bị ngộp, ực ực mấy tiếng nữa rồi lại khóc thét. Qua ánh sáng lờ mờ chùm rễ lục bình, Thành nhìn thấy ánh mắt vợ lóe lên vẻ kiên quyết. Anh biết vợ định làm gì, nhưng chỉ biết đau đớn nhìn đứa con đang quẫy đạp. Hình như bọn giặc cũng nghe văng vẳng tiếng con nít khóc mà không biết ở đâu. Làn đạn tập trung bắn vãi về phía đoàn người, bay chíu chíu trên đầu.

Không thấy động tĩnh gì, bọn giặc kéo nhau đi về phía ấp Ba. Cả khúc sông bỗng lặng im đáng sợ. Con bé không khóc nữa, địch đã đi xa. Hú hồn! Người giao liên trèo lên bãi sông đầu tiên:

- Lên đi các đồng chí ơi! Ổn rồi!

Vợ chồng Thành cũng lập tức lao lên bờ, đặt con nằm xuống đất. Cúc cuống cuồng cúi xuống, thổi ngạt cho con. Thành nhẹ nhàng ấn bàn tay lên vầng ngực nhỏ, nhịp nhàng:

- Tỉnh lại đi con ơi! Con gái của ba!

Đoàn người xúm lại đứng vòng quanh. Tiếng lao xao hỏi. “Cháu bé sao rồi? Con nhỏ sao rồi?”.

Thiên thần nhỏ bé nằm ướt sũng, mắt khép hờ. Đôi môi vẫn chúm chím như muốn tìm vú mẹ. Cúc gục đầu xuống ngực con:

- Con gái ơi! Hãy hiểu cho má!

Có tiếng khóc thút thít từ chỗ mấy chị phụ nữ...

*

*    *

 Khu rừng tự nhiên trong khuôn viên tòa thánh Tây Ninh ríu rít tiếng chim. Gió chiều chạy loạt xoạt trên vòm lá cao. Mấy ly trà, đá đã tan hết, nước tràn cả ra mặt bàn. Chúng tôi lặng im ngồi nghe vợ chồng người nhạc sĩ già kể về câu chuyện thương tâm của chính họ trong chiến tranh. Lâu lắm hai người mới tìm về chiến trường xưa, xâu nhặt chuỗi kỷ niệm buồn. Bà Cúc mắt đỏ hoe:

- Con nhỏ nếu còn sống, nay cũng năm mươi tuổi, là bà ngoại rồi không chừng. Vợ chồng tôi sau này có một đứa con gái nữa, cũng theo học Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng cái chết của chị nó thì tôi chưa bao giờ dám quên! Nó chết đi để cứu cả đoàn người.

Nhạc sĩ Thành ngồi trầm ngâm đốt thuốc lá. Trong đầu ông, vang lên giai điệu trầm lắng: Có một bài ca không bao giờ quên... Bài ca tôi không quên, tôi không quên... Tôi không thể nào quên...

Những nốt trầm, bám đeo đẳng suốt cuộc đời...

Truyện ngắn của PHÙNG PHƯƠNG QUÝ