Ấy là lúc chúng đang chơi trò trốn tìm. Đứa đi tìm cứ dáo dác. Một đoạn xóm nhỏ nhưng kỳ thực có mấy chỗ trốn đâu. Chục đứa con nít thì hết phân nửa đã lẻn vào mảnh vườn của ông. Đứa chọn gốc cây, đứa thì quấn mình trên chiếc võng, có đứa nấp sau cánh cổng sum sê lá hoa. Cũng có đứa cắc cớ, vén cái rèm nhà rồi ngồi trong góc cửa. Cứ vậy mà mùa hè của đám nhỏ rộn ràng từ hơn tuần nay.

Cũng có khi chúng chạy mệt thì thản nhiên ghé qua cửa nhà, rót ly trà đá, uống cái ực, lại cười nhoẻn miệng: “Cảm ơn ông nội!”. Rồi lại đuổi bắt nhau bằng mấy trò thảy dép, tạt lon, giựt cờ. Chừng áo quần ướt nhẹp mồ hôi thì cả đám khoanh tròn lại mảnh vườn. Ông lại chậm rãi vào nhà, bưng ra cả một ca to hạt é, có hôm là sương sâm, cũng có khi là chè đậu xanh. Đám nhỏ cứ vậy mà hồ hởi chia nhau. Kỳ thực, mỗi ngày mỗi món. Phần lớn là do vợ ông nấu, cũng có hôm thì má thằng Tí Hon nấu, bữa khác lại của ba con Trân mua về, cũng có ngày là do bà ngoại con Đào đem qua. Đám trẻ đâu cần biết của ai, chỉ cần biết khi chúng bắt đầu tụ tập những ngày hè chạy rong trong xóm nhỏ này thì ngôi nhà cuối xóm của “ông nội” luôn là điểm tập kết khi mệt, và ngày nào cũng có món chè, kem, sữa chua, rau câu mát lạnh chờ chúng nghỉ giữa buổi chơi hí hửng chia nhau.

Chúng gọi ông bằng hai tiếng “ông nội” như quen miệng ngót chừng chục năm nay, kể từ ngày ông về hưu và mở cửa chơi cùng chúng. Đứa lớn dạy đứa nhỏ. Cứ vậy mà chúng tăm tắp gọi theo. Cũng có đứa chạy rong chục năm trước, nay nhổ giò dong dỏng cao, đã không còn long nhong những ngày hè như hồi mới lên năm lên sáu, nhưng hễ gặp ông vẫn cứ tiếng dạ tiếng thưa bằng hai chữ “ông nội”. Lắm lúc ba má tụi nhỏ nhìn ông chừng như ái ngại. Đâu ra cứ sau giấc ngủ trưa là chúng chạy giỡn rần trời rồi lại quẩn quanh mảnh vườn ông đang ngồi trà chiều đến tận mặt trời lặn mất tiêu, khi ba má chúng tan ca về đến cửa nhà, chúng còn chưa chịu về. Mấy bận nghe vậy, ông xua tay lia lịa: “Ngại chi bây ơi, có tụi nhỏ vui quá chừng. Chiều nào thiếu một đứa là lại lo lắng hổng biết nó đi đâu, hay có ốm đau bệnh hoạn gì không. Hỏi khắp cái xóm này, ai cháu nội nhiều bằng tao đây? Đó, cháu càng đông là đời càng vui. Bây cứ đi làm, thời gian đâu mà dòm ngó tụi nhỏ mấy tháng hè. Cứ đem qua đây, cứ để chúng chơi. Đừng dí tụi nhỏ học hè suốt ngày. Hồi tao bằng tụi nhỏ, ba tháng hè quậy đục nước sông, leo cây trộm trái người ta dí chạy khắp đồng. Vậy đó, chừng mấy năm thôi là đã lớn, là mất tiêu mùa hè, là phải ngó bom đạn cày nát Cửu Long”.

Vậy nên, ông hay nhìn mùa hè của ấu thơ qua đám con nít trong xóm nhỏ này.

***

Con Trân bất thình lình chạy ùa về phía ông. Cái giọng nhào nhão pha thêm chút điệu đà lúc lắc hai bím tóc. Nó chìa trước mặt ông quyển bài tập hè để đầu năm sau vào lớp 6. Bài tập tả ông bà mình. Nhưng, ngặt nỗi ông bà con Trân tuốt luốt tận Thanh Hóa. Từ hồi ba má sanh nó đến giờ, chỉ mỗi dịp Tết hay phía quê nội có việc quan trọng lắm, cả nhà mới đùm túm về năm ba ngày rồi trở lại thành phố ngay. Trong ký ức non nớt của nó chắc gì đã biết những câu chuyện của người lớn mà tả ông bà mình. Chưa kịp để ông phản ứng thì con Đào bên cạnh đã trề môi ra điều biết cách. Năm trước, anh Tí Hon chẳng bắt ông nội kể chuyện rồi tự làm bài này, chứ anh Tí Hon cũng có về quê với ông nội ruột của mình được đâu. Ông nội trong bài tập của anh Tí Hon khác ông nội ruột. Con Trân quay qua, mắt tròn xoe. Cả đám lại nhao nhao. Ơ hay, ông nội trong bài tập đây này. Nhìn theo mấy ngón tay của đám bạn chung xóm, con Trân ngó về phía ông.

Ông lúng túng, ơ năm nay cũng thế nữa sao? Đám trẻ trong xóm nhỏ này phần lớn theo cha mẹ nương náu thành thị. Cha mẹ chúng cũng bốn phương tám hướng, gá thân mình vào mảnh đất phồn hoa này cho cuộc mưu sinh. Gặp nhau, thương nhau rồi kết tơ tóc, coi như chọn cái thành phố nắng ấm quanh năm để bắt đầu khởi nguồn một thế hệ mới tiếp nối mình. Mấy đứa nhỏ vì thế ít nhiều chẳng có điều kiện về quê, nên đâu có bao nhiêu thời gian gắn bó với ông bà. Xòe bàn tay ra đếm, có đứa chục tuổi thì ký ức của nó về ông bà mình chắc chưa đầy một bàn tay. Huống chi là kêu chúng viết ra, trên trang giấy, miêu tả rồi kể chuyện. Nói thiệt lòng, biểu ông làm, ông còn chưa chắc viết được.

leftcenterrightdel
 Minh họa: THÁI HÒA

Ông nhớ, lần đầu tiên mình làm “ông nội trong bài tập” cũng cách nay chục năm. Đó là lúc thằng Phan nhất quyết nói với bố mẹ, nó chỉ viết được ông nội mỗi mùa hè cho nó uống trà đá, cho nó ăn chè sương sa bánh lọt, chứ giờ kêu kể ông nội ruột tận ngoài Quảng Nam thì khó quá. Bởi lúc nó sanh ra thì ông nội ruột nó mất đâu đó trước cả chục năm trời. Bố nó mồ côi cha mẹ khi mới ngoài hai mươi. Long đong hơn chục năm với thị thành này mới gặp vợ bây giờ từ hồi còn trọ tận Bình Chánh. Thêm chục năm nữa mới đủ tiền mua căn nhà nhỏ trong xóm này. Nghĩ tới nghĩ lui, bố thằng Phan qua nhà ông gõ cửa. Hai bác cháu ngồi ngoài thềm nhà, pha ấm trà. "Ông cho thằng nhỏ nhận làm ông nội, để...", bố thằng Phan chưa kịp dứt câu đã nghèn nghẹn giọng.

Phan từ hồi ấy bắt đầu thành đứa cháu nội đầu tiên của ông trong cái xóm nhỏ này. Ông cũng thành “ông nội trong bài tập” lần đầu tiên từ chuyện ấy.

***

Ông tứ cố vô thân. Mới mười bốn tuổi, ông mất anh hai và má sau trận bố ráp của Mỹ vào chợ Hòa Long. Chúng bắt được anh hai đem ra đầu chợ xử tử vì dám theo cách mạng. Chừng như chưa đã cơn tàn ác. Chúng quấn mìn quanh bụng anh hai phòng khi đồng đội quay về lấy xác trong đêm. Cái ác ẩn sâu ấy đã khiến má và bác năm đêm đó mò ra đồng cạnh chợ bỏ mạng. Ba đem tất cả xác về chôn phía sau nhà. Chúng mò tới quấy phá. Nhà còn chị kế tiếp cũng đã thoát ly hồi mới mười sáu tuổi, làm giao liên đường dài từ Lai Vung lên Sa Đéc. Ông ngày đó phải cùng ba mình lênh đênh trên chiếc xuồng nhỏ dạt từ Đồng Tháp qua miệt Long Xuyên lánh nạn. Vậy đó mà chúng chẳng tha. Chỉ hai năm sau, chúng lại cho ghe chặn xuồng lôi ba ông đi. Đâu chừng mấy ngày sau, xóm giềng mới khiêng được ba ông về trong thoi thóp hơi thở. Đêm trăng hạ, mưa phủ chông chênh con xuồng nhỏ, ba ông cũng về với sóng nước Cửu Long. Chị ông chỉ kịp về trong muộn mằn rồi đưa ông đi theo. Ông cũng thoát ly khi mới mười sáu.

Ngày ông theo cánh quân từ Long An tiến vào cửa ngõ phía Tây thành phố để đánh trận cuối thì hay tin chị ông nằm lại ở phía cầu Rạch Chiếc khi chỉ cách giây phút hòa bình một đêm. Ông chẳng còn ai. Mấy mươi năm qua, ông giữ trọn màu áo xanh trên mình cho đến ngày về hưu. Đất này và xóm này đã trở thành quê hương của ông từ khi nào ông cũng chẳng nhớ.

***

Sau cữ cơm tối, ông pha bình trà, ngồi ngoài thềm nhà nghe khiết bông dậy hương thoang thoảng. Bỗng có tiếng réo phía cửa, giọng nhào nhão quen thuộc. Rồi thêm hai ba tiếng nữa, lao xao như hồi chiều. Ông ra đến sân đã thấy đám trẻ ùa vào. Con Trân đưa bài làm cho ông. Trong bài tập làm văn của nó, con nhỏ tả ông nội của mình là bộ đội, trong nhà còn treo nhiều ảnh ông mặc quân phục, ngực gắn đầy huân chương, huy chương. Nó kể ông nội nhà cuối xóm cứ chiều chiều là mở cửa ngồi canh chừng lũ trẻ trong xóm chạy nhảy long nhong. Nó kể ông nội không phải là người sinh ra ba nó, nhưng ông nội dạy nó đủ thứ trên đời. Ông nội nó không phải trong bài tập như đám bạn chơi chung chỉ nó viết. Ông nội này là ông nội thiệt trong lòng của nó...

Ông bất giác nhìn con nhỏ mới mười một tuổi mà mắt đỏ hoe, sống mũi cay xè. Chục năm trời làm “ông nội trong bài tập”, ông vẫn luôn kể câu chuyện đời mình cho đám trẻ xóm này nghe. Cũng ngần ấy thời gian ông đọc các bài văn tả ông nội của đám trẻ xa quê neo đời mình với thị thành thiếu vắng ông bà. Ông chưa bao giờ đọc một cái kết lạ lùng như trong bài làm của con Trân. Ông thẫn thờ ngồi ngó giàn hoa. Ông không có con trai, mấy đứa con gái lấy chồng xa cũng ít khi về nhà. Chắc đám cháu cũng ít tả ông ngoại mình vì năm ba tháng mới theo ba má về thăm ngoại. Nhưng, ông tin, trong mắt đám con nít của xóm nhỏ này, ông không chỉ là ông nội trong bài tập.

Một đêm hè muộn, ông phá lệ, đãi tụi con nít xóm nhỏ món rau câu vợ ông vừa mới nấu. Chưa nói hết câu đã nghe chúng tỏa ra í ới gọi mấy đứa khác chạy qua nhà ông nội. Đêm hè hấp nóng mà cái mảnh vườn ông lại mát rười rượi giọng cười trẻ con.

leftcenterrightdel
Tác giả Tống Phước Bảo. 
Chuyện ở xóm lao động nhỏ ven phố thị, nơi người tứ xứ tụ đến tất bật mưu sinh. Bọn trẻ con ở cái xóm ấy cũng có những mùa hè háo hức tất bật chạy nhảy, với nhiều trò chơi của chính mình và một người ông chung mà chúng vẫn gọi thân thương là "ông nội". Bởi đã chịu nhiều mất mát do chiến tranh, cả đời gắn bó với quân ngũ, nên từ trong sâu thẳm, ông nội trân trọng hòa bình cùng tiếng cười hồn nhiên của trẻ thơ. Vì ông biết, những ký ức ấu thơ hạnh phúc sẽ theo bọn trẻ mãi mãi khi chúng đã lớn, lập gia đình, sinh con đẻ cái. Bởi xét đến tận cùng: Mỗi người lớn chúng ta, ai cũng từng là một đứa trẻ... (Nhà văn ĐINH PHƯƠNG)

Truyện ngắn của TỐNG PHƯỚC BẢO