Để tưởng nhớ công ơn, vào dịp thu hoạch hoa màu, họ làm lễ cúng trăng và được tổ chức thống nhất vào đúng đêm rằm tháng Mười âm lịch. Nơi tổ chức lễ là tại khuôn viên chùa, cũng có thể ở nhà hoặc nhiều nhà cùng tập trung dâng lễ tại nơi rộng rãi, nhìn trọn vẹn được cả bầu trời đêm trăng rằm.
Cốm dẹp và tục lệ “Oóc om bóc”
Thức cúng đặc biệt không thể thiếu trong Lễ cúng trăng là cốm dẹp, được quết từ lúa nếp. Trước lễ cả tháng, nhà nhà đã lo chuẩn bị làm cốm dẹp. Đến mùa, những người phụ nữ trong gia đình ra ruộng nếp lựa từng bông vừa chín tới, chắc mẩy mang về rang sơ cho hạt vừa “dẻo mình”, không nổ hạt. Những mẻ nếp còn nóng được cho vào cối giã vừa tay, để hạt cốm dẹp mình và tróc vỏ trấu. Hình thức của cốm dẹp, cách làm gần giống như cách làm “cốm vòng” ngoài Bắc.
Những gia đình ở xa chùa, mâm cúng bắt đầu được trang hoàng và bày biện khi chiều xuống. Khi trăng lên, vị A-cha (người có uy tín trong cộng đồng) được các gia đình mời đến tiến hành nghi lễ cúng trăng. Mọi người trải chiếu ngồi quây quần quanh mâm cúng. Sau lời khấn tạ ơn và cùng đọc bài kinh cầu phúc, những đứa trẻ trong gia đình lần lượt được gọi lên để Oóc om bóc (đút cốm dẹp). Miệng ngậm đầy cốm dẹp lẫn các loại củ, trái cây… mỗi thứ một ít được vắt thành nắm, đứa trẻ vừa nuốt cốm dẹp, vừa nói lên ước muốn của mình gửi tới mặt trăng.
Ghe ngo
Trong tín ngưỡng dân gian Khmer, mặt trăng là vị thần điều tiết mưa nắng, đem lại sự phát triển thuận lợi cho mùa màng và công việc đồng áng của con người. Khi mùa màng đã thu hoạch xong, trong lễ Oóc om bóc, người Khmer thường tổ chức đua ghe ngo với ý nghĩa đưa nước về xứ của Neack (rồng). Tại một số địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, giải đua ghe Ngo mang tính chất như một ngày hội, gắn liền với lễ Oóc om bóc.
Ghe ngo xưa được làm bằng một thân cây gỗ lớn theo hình thức “độc một” nên chiều dài thường không bằng nhau. Đuôi ghe ngo và mũi cong vút, được ráp lại và trang trí với những hình thức hoa văn chạm khắc hoặc sơn vẽ lên. Hoa văn chủ đạo là hình hoa lửa, khói sóng. Chiếc ghe ngo không chỉ là vật dụng sinh hoạt văn hóa được chế tạo, bảo quản ở trong chùa của từng phum, sóc mà nó còn là một linh vật biểu tượng của sự ấm no, sung túc. Chính vậy mà tính chất của cuộc đua tuy luôn quyết liệt nhưng lại mang tính gắn kết cộng đồng trong cuộc vui chung, thông qua chính những điệu múa, câu hát được trình diễn trên ghe và cả ở hai bên bờ sông. Ông Thạch Pel (92 tuổi) ở ấp Tân Lợi, xã Thạnh Tân, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng kể với tôi rằng: Lễ đua ghe Ngo ngày xưa thường được mở tại vàm sông lớn. Ở Sóc Trăng xưa là tại vàm Dù Tho, rồi sông Nhu Gia. Ở Miệt Thứ, Kiên Giang thường hay tổ chức ở Sóc Ven, Gò Quao, Ngan Gừa… Các ghe đua tới theo sự sắp xếp của những vị A-cha và các vị sư ở các chùa mà bắt cặp đua từng đôi.
Theo thường lệ, khi xuất phát hai chiếc ghe không ở lằn mức nào nhất định vì sông quá rộng. Hai bên cứ bơi chầm chậm lấy trớn tới, nhịp nhàng với nhau theo nhịp hô “muôl muôl muôl”. Chỉ đến khi hai vị chỉ huy trên ghe nhìn nhau đồng ý đua thì mới bắt đầu cuộc đua. Trong lúc bơi đua, những câu hát đua ghe vang lên trên mặt sông rộng. Ghe này hát khoe xứ của tôi mùa màng trúng đậm, trai gái có nhiều quần áo đẹp để đi chơi; còn ghe kia thì hát khoe con gái xứ tôi đẹp người, đẹp nết nên bao nhiêu trai mạnh khỏe và giỏi giang của xứ anh đều về xứ tôi làm rể. Những câu hát không mang tính khích bác, khiêu khích mà bày tỏ sự trù phú, cái giỏi giang, cái đẹp, cái hay của xứ mình. Ngày trước trong hội đua ghe Ngo, chuyện thắng hay thua không quan trọng, mà quan trọng nhất là mọi người được vui ngày đưa nước, là dịp mỗi sóc, phum kể cho nhau nghe những câu chuyện vui ở xứ mình.
Những tay bơi nữ
Vị trí “ngồi mũi” trên ghe ngo là một vị trí có tính chất “biểu tượng” nên ngoài kinh nghiệm về bơi đua, người ngồi mũi còn phải là “mạnh thường quân” trong bổn sóc, đã có nhiều đóng góp về tài vật cho đội ghe như: Góp gạo, mổ heo, bồi dưỡng đường, sữa. Các vị lão làng kể lại khi xưa, có người góp tới 200kg gạo và một con heo lớn trong suốt một tháng đội ghe chuẩn bị nhưng chưa chắc đã vinh dự được ngồi mũi. Cũng trong tín ngưỡng dân gian Khmer, vì là linh vật của bổn sóc nên chiếc ghe ngo được rất nhiều vị thần linh và ngạ quỷ (areack), cả ác và thiện, bảo hộ để tăng thêm sức mạnh. Chính vậy họ hạn chế để phụ nữ bước lại gần hoặc bước chân lên chiếc ghe ngo như một giải pháp để bảo vệ người phụ nữ trước những điều không thể ngờ trước được của những vị thần và ngạ quỷ. Chưa tính đến chuyện bơi ghe ngo vốn là một công việc nặng, tốn nhiều sức lực, không hợp với người phụ nữ. Nhưng kể từ khi đua ghe Ngo chính thức được tỉnh Sóc Trăng nâng lên tầm là một môn thể thao với những quy định chặt chẽ (năm 2006), giải đua ghe Ngo nữ đầu tiên được tổ chức thì quan niệm này dần được xóa bỏ. Có quan niệm cho rằng đây là một “bước tiến trong bình đẳng giới” thì quả thật quá sai lầm, bởi lẽ người Khmer Nam Bộ chịu ảnh hưởng bởi chế độ “mẫu hệ” nên trong gia đình và cả trong bổn sóc, vai trò của người phụ nữ luôn được xem trọng và tôn kính.
Ghi chép của MINH LY