Quê tôi ở huyện Nông Cống, cách TP Thanh Hóa hơn 30km, nơi mà trước đây người ta thường nghĩ là “nghèo xác xơ”. Nghèo đến nỗi mà nhiều người muốn rời quê đi kiếm sống, không ít người mới nghe thấy đã không dám lại chơi. Thật ra, những năm 60 của thế kỷ trước, quê tôi là vùng đất đói kém, người dân bỏ làng đi xin ăn khắp nơi. Ngọn núi Nưa như một biểu tượng của Nông Cống trước đây là rừng cây rậm rạp nên lũ lụt không gây thiệt hại gì đáng kể. Nhưng khi rừng bị chặt phá, cứ mưa lớn là nước ngập đồng, còn vào mùa khô đất ruộng lại khô cong như chiếc bánh đa nướng. Vì thế mà mùa màng hay bị thất bát, cuộc sống của người dân đói nghèo theo sự khắc nghiệt của thiên nhiên.
Trước đây người ta hay đọc câu ca “Được mùa Nông Cống sống mọi nơi”. Khi còn đi học, tôi chẳng hiểu mô tê ý nghĩa của nó như thế nào. Sau này đọc tài liệu và hỏi những người lớn tuổi, tôi mới vỡ lẽ và càng thấy tự hào về quê hương thương yêu của mình. Ngay từ thế kỷ thứ 17, vùng đất Nông Cống được coi là vựa lúa, vựa ngô-khoai-sắn của xứ Thanh. Và sản vật nhiều nhất ở Nông Cống xưa nay vẫn là lúa gạo. Theo các nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Chữ và Nguyễn Văn Siêu, huyện Nông Cống trước và sau Công nguyên có tên là huyện Tư Nông (tức huyện có nhiều sản vật nông nghiệp). Theo “Đại Nam nhất thống chí” thì tên Nông Cống có từ thời nhà Trần về trước. Chữ Nông Cống, theo chữ Hán có nghĩa là cung cấp, cống nạp về lương thực, sản phẩm nông nghiệp. Khi Nông Cống được mùa, sẽ cung cấp lương thực cho các vùng xung quanh, cái đói cũng bị đẩy lùi.
Bà ngoại tôi còn kể rằng, câu ca xưa của người xứ Thanh là “Cơm Nông Cống, cá Quảng Xương, văn chương Hoằng Hóa”. Hạt gạo được hình thành từ ruộng đồng quê tôi rất trắng, dẻo và thơm. Có lẽ do sự thơm thảo của hương lúa, của đồng ruộng, mà con gái Nông Cống đa phần là duyên dáng, xinh đẹp, nết na và đảm đang. Những chàng trai nào đã bén duyên con gái Nông Cống thì cứ như bị dính keo, như bị thôi miên. Cũng từ đây, câu tiếp theo của “Được mùa Nông Cống, sống mọi nơi” là câu “Mất mùa Nông Cống tả tơi mọi vùng”. Không chỉ có vậy, vượt ra khỏi tỉnh Thanh Hóa lại có câu “Nghệ Yên Thành, Thanh Nông Cống”, có nghĩa là Nghệ An có huyện Yên Thành là nhiều lúa gạo, thì ở Thanh Hóa phải kể đến Nông Cống. Gạo ngon ở Nông Cống có thể tìm hiểu ở đình Làng Lai xưa (xã Tân Khang). Trước đây, trong sắc phong của vua nhà Nguyễn còn lại câu: “Trí tứ tinh mễ sở” (vùng có gạo ngon nổi tiếng để tiến vua). Nông Cống xưa có làng Tinh Mễ, dưới chân núi Nưa thuộc xã Tân Khang là một trong bốn vùng có gạo ngon nổi tiếng ở nước ta.
Nông Cống gian khó một thời, nhưng lại là nơi giàu tình yêu thương nhất đối với tôi. Quê tôi giờ đã đổi thay rất nhiều, mà vẫn còn đó những ruộng lúa trải dài, những vườn ngô xanh mướt và những con đường thôn quanh co vào nỗi nhớ. Chúng đã in tuổi thơ của tôi vào ký ức, để rồi mỗi khi bước trên con đường quen về với mẹ, thả ánh mắt vào màu xanh của ngô lúa, hít căng lồng ngực hương quê ngọt ngào là muốn khóc òa, là muốn ôm tất cả vào lòng mà hôn hít, ngất ngây...
Quê tôi là vậy, thế mà không ít người lại hiểu sai đi câu ca xưa. Người ta cho rằng vùng đất Nông Cống là nơi “chó ăn đá, gà ăn sỏi”, là năm tháng vật lộn với đói nghèo. Ngày nay, quê tôi vẫn là địa phương có diện tích trồng lúa nhiều nhất tỉnh Thanh Hóa, với năng suất ngày càng cao. Nơi đây cũng đổi thay hằng ngày bằng phong trào “xây dựng nông thôn mới”. Vì thế mà vùng quê nghèo năm xưa, giờ là nơi níu chân người, là nơi hò hẹn của những mối tình chung thủy. Làng tôi có một chàng trai quê đất phố Hiến-Hưng Yên về đây lấy vợ rồi ở rể. Qua anh, nhiều chàng trai khác cũng ao ước được làm rể, làm người yêu của con gái Nông Cống.
Mẹ bảo tôi ra ruộng ngô tẻ trước nhà bẻ bắp cho gà ăn. Chao ơi, mới chạm vào những chiếc bắp mà người tôi bỗng nóng ran. Gió mùa làm những chiếc lá chạm vào má buồn buồn, ran rát, cảm giác như nó đang nhắc nhở mình một điều gì đó. Nhìn thân ngô tựa vào nhau vươn cao, là thấy ngay bao ngày tháng nhọc nhằn vun trồng, chăm bón của mẹ. Tôi cảm nhận như mình nhang nhác giống vườn ngô. Một tay mẹ chăm nuôi, một tay bố vỗ về và chị em tôi lớn lên, được học hành tử tế, rồi tung bay ra với cuộc đời. Nghĩ đến vậy, nước mắt của tôi trào qua bờ mi lúc nào không hay.
Ngày tôi còn học ở quê, mẹ thường giành lấy việc đồng áng về phần mình. Chỉ khi nào công việc ngập đầu, thời vụ cần kíp lắm, mẹ mới bảo tôi ra ruộng. Theo mẹ ra đồng, đôi chân sáo của tôi tung tăng trên những bờ ruộng nhỏ. Cúi lưng cắm những nhánh mạ xuống ruộng, là thấy ngay cái mùi tanh ngai ngái của đất. Vục những gầu nước lên, là nghe thấy tiếng dào dạt của quê hương. Nhiều hôm cầm cuốc đi phát bờ cỏ, ngâm đôi chân trong bùn ruộng, mới thấm hết cái tình, cái nghĩa của mảnh đất này đã cùng con người trải bao ngày nắng mưa, làm nên hạt gạo Nông Cống dẻo thơm đến tận bây giờ.
Nhà tôi có ba sào ruộng trồng lúa. Những ngày vào mùa, mẹ cứ gọi điện thoại hỏi bao giờ con về để ra đồng giúp mẹ. Mùa vụ gấp gáp, một mình mẹ xoay xở việc đồng, việc nhà khiến gương mặt của mẹ sạm đi, những nếp nhăn cũng nhiều hơn. Lúc ấy tôi chỉ muốn bay ngay về quê để chia sẻ những giọt mồ hôi và những lo toan bộn bề với mẹ. Vì cuộc sống mưu sinh của gia đình, bố tôi đã phải vào tận thị xã La Gi (Bình Thuận) làm thủy thủ tàu cá hơn chục năm rồi. Những tháng ngày lênh đênh trên biển, bố chỉ về nhà một đến hai lần mỗi năm. Khi 15 tuổi, tôi cũng tuột ra khỏi vòng tay của mẹ. Tôi lên TP Thanh Hóa học năng khiếu, rồi vào mãi tận TP Hồ Chí Minh học nốt trung học phổ thông và học đại học, quê hương trong tôi đong đầy trong ký ức.
Tôi rời quê khi những người nông dân ra đồng làm cỏ lúa. Hình ảnh quê hương cùng hình bóng mẹ hiền sớm hôm mưa nắng dãi dầu đã ở lại phía sau. Tôi mong khi mùa lúa chín vàng, sẽ lại được về quê ăn bát cơm dẻo thơm nấu bằng gạo Nông Cống, để thấm hơn tình mẹ, tình quê, để được cháy bỏng yêu thương và thổn thức trong trái tim mình…
(Nông Cống - TP Hồ Chí Minh - Xuân Kỷ Hợi)
Tản văn của LÊ CÚC