Những năm 60 của thế kỷ trước, khi mà cả nước đang hừng hực khí thế hưởng ứng lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh như tiếng hịch non sông: Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam! Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi! Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập! 

Như bao chàng trai tuổi mười tám, đôi mươi ngày ấy, Trần Ngọc Phượng cũng xếp bút nghiên, tạm biệt mái trường thân yêu, tạm biệt quê hương nơi có cây đa, giếng nước, sân đình; tạm biệt gia đình cùng những người thân yêu, hăng hái tình nguyện lên đường tòng quân, chiến đấu. Như bao đồng đội, anh vào bộ đội nhưng vẫn vấn vương với những kỷ niệm thời ấu thơ thân thương, mà sau khi vào chiến trường, mỗi phút chiến trường ngưng tiếng súng là dịp kỷ niệm lại ùa về...

leftcenterrightdel
Bìa cuốn sách "Tìm dấu chân xưa". 

Gần 10 năm sống, chiến đấu với chồng chất khó khăn, gian khổ, đói ăn, thiếu ngủ, nằm hầm, chịu hàng trăm vụ oanh kích của máy bay Mỹ với hàng nghìn tấn bom đạn, chống hàng chục trận càn hung hãn của địch tại chiến trường miền Đông Nam Bộ. Chứng kiến, trải nghiệm, bao đồng đội, đồng chí đã hy sinh xương máu, không ít người đã ra đi mãi mãi... Trong cuộc kháng chiến trường kỳ hàng chục năm trời, có khi suốt 3 tháng ròng không một hạt cơm, phải ăn củ rừng, sắn non, rau rừng để duy trì sự sống. Nhiều đồng đội hy sinh. Có trận, cả trung đội phải đương đầu với một trung đoàn địch, anh em hy sinh chỉ còn lại vài người. Lễ kết nạp đảng viên mới ở chiến trường tuy đơn sơ nhưng trang trọng, thiêng liêng. Anh đã đọc lời tuyên thệ: "Hy sinh suốt đời cho Đảng, cho Tổ quốc”, khi mà người bạn chiến đấu và là người giúp đỡ, dìu dắt anh vào Đảng mới hy sinh chiều hôm trước. Ngày ấy, lý tưởng cách mạng luôn hừng hực, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc là khát khao cháy bỏng mà mỗi chiến sĩ Quân giải phóng luôn vươn lên, xốc tới!

Sau năm 1975, anh chuyển ngành và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong công cuộc kiến thiết, xây dựng đất nước, với nhiều cương vị, như: Tổng giám đốc, Phó trưởng ban Thường trực Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp TP Hồ Chí Minh... Ở đâu, nhiệm vụ nào anh cũng hoàn thành xuất sắc với tinh thần Bộ đội Cụ Hồ.

16 bài viết theo dạng tản văn, truyện ký đã phản ánh cuộc sống chiến đấu rất chân thật, phong phú của người lính ở chiến trường miền Đông ác liệt. Bởi đây là ghi chép về cuộc sống thật của anh cùng đồng đội nên khi đọc những bài: "Tết rừng 1974", "Ngã ba Cây Cầy", "Tình rừng", "Cảm xúc Tháng Tư", "Thư nhà", "Giỗ bạn", "Lời thề ấy đi cả đời chưa trọn"... người đọc thấy mỗi “mẩu” ghi chép, ký sự của anh ngồn ngộn tư liệu, rất thật, như đang được tham gia vào các sự kiện ấy: Hồi hộp, xúc động, xót xa, căm phẫn... Những người lính thế hệ các anh ra trận không chỉ mang khẩu súng vác vai mà trong ba lô còn có quyển sổ nhật ký. Trong bom đạn ác liệt sống nay chết mai, vẫn tí toáy làm thơ. Thơ viết trong hầm tránh bom B-52, thơ viết trong đêm hành quân, giữa lúc giải lao: “Ngả lưng trên thảm cỏ mềm/ Chia nhau chút ánh lưỡi liềm trăng non”. Trong tột cùng của thử thách chiến tranh càng bộc lộ ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan, tình cảm sâu đậm của người lính với đất nước, quê hương, với gia đình, đồng đội. Có thể nói rằng, mỗi ghi chép ấy như những thước phim phóng sự, tài liệu. Nó như một mảng màu của người lính hậu cần ở chiến trường miền Đông, trong bức tranh toàn cảnh hoành tráng về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Nó là một phần, dù nhỏ bé nhưng quan trọng, không thể thiếu và không thể tách rời của cuộc chiến đầy gian khó, khốc liệt, với nhiều hy sinh dũng cảm của quân và dân ta. 

Bài và ảnh: SĨ BÌNH