Trong lịch sử xây dựng 64 năm qua, nền điện ảnh ra đời tại chiến khu, trong khói lửa của cuộc trường kỳ kháng chiến chống giặc Pháp xâm lược đã sản sinh ra nhiều bộ phim hay, dựng vóc dáng nhiều tên tuổi tài năng có uy tín trong và ngoài nước. Giờ đây có thể khẳng định rằng: Thế hệ văn nghệ sĩ đóng góp nhiều thành tựu sáng tạo trong các thập niên 1960, 1970 và đầu thập niên 1980 với những bộ phim kinh điển của nền điện ảnh nước nhà là thế hệ vàng của Điện ảnh Việt Nam. Trong số đó có thể kể đến: Phạm Văn Khoa, Nguyễn Hồng Nghi, Phạm Kỳ Nam, Nông Ích Đạt, Hồng Sến, Đặng Nhật Minh, Bạch Diệp, Hải Ninh, Huy Thành, Khắc Lợi... (đạo diễn); Hoàng Tích Chỉ, Bành Bảo, Bành Châu, Vũ Lê Mai, Văn Linh, Cầm Kỷ, Phù Thăng, Hứa Văn Định, Trần Kim Thành, Văn Thảo Nguyên, Lê Phương, Vương Đan Hoàn... (biên kịch); Trà Giang, Lâm Tới, Thế Anh, Trịnh Thịnh, Huy Công, Thụy Vân, Lịch Du, Đoàn Dũng, Mạnh Linh, Lâm Tới, Trần Phương, Đức Hoàn, Ngọc Lan, Thanh Thủy, Anh Thái, Lân Bích, Minh Đức, Kim Chi... (diễn viên); Nguyễn Đăng Bảy, Khánh Dư, Xuân Chân, Trần Thế Dân, Nguyễn Mạnh Lân, Phạm Ngọc Lan... (quay phim); Đào Đức (họa sĩ); Vũ Lương (âm nhạc); Nguyên Hồ, Trịnh Mai Diêm, Hoàng Thanh, Phạm Ngọc Trương... (lý luận phê bình); Bùi Đình Hạc, Ngọc Quỳnh, Phạm Khắc, Lý Thái Bảo, Dương Minh Đẩu, Lê Thi, Lương Đức, Trần Văn Thủy, Đào Trọng Khánh... (điện ảnh tài liệu-khoa học); Ngô Mạnh Lân, Trương Qua, Hồ Quảng... (điện ảnh hoạt hình); Phạm Văn Khoa, Nguyễn Ngọc Trung, Lê Đăng Thực... (đào tạo). Để có được những tác phẩm điện ảnh còn phải kể đến đóng góp của các nhà văn nổi tiếng trong khâu sáng tác kịch bản phim truyện, như: Nguyễn Quang Sáng với "Cánh đồng hoang", "Mùa nước nổi"; Anh Đức với "Chị Tư Hậu"; Lê Lựu với "Người về đồng cói"...

leftcenterrightdel
Poster giới thiệu bộ phim Cánh đồng hoang-Huy chương Vàng Liên hoan phim quốc tế tại Mátxcơva năm 1981, Bông Sen Vàng Liên hoan phim Việt Nam năm 1980. Ảnh: Internet 

Cùng với diễn trình lịch sử điện ảnh nước nhà, thời kỳ nào, giai đoạn nào cũng có những tài năng và những tác phẩm-bộ phim hay ở tất cả các khu vực sáng tác phim truyện, phim tài liệu-khoa học, phim hoạt hình... Trong số đó, chúng tôi muốn nói đến lớp người đầu tiên, thế hệ văn nghệ sĩ đầu tiên trong khu vực sáng tác điện ảnh phim truyện. Theo đó, có thể tạm phân định thế hệ đầu của điện ảnh phim truyện Việt Nam là những người xuất hiện từ khi có bộ phim "Chung một dòng sông", tiếp theo là những bộ phim thành công trong các thập niên 60, 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ trước.

Đặc điểm dễ nhận nhất là tài năng của thế hệ đầu xuất hiện khá rầm rộ trong tất cả các khâu sáng tác mà chúng tôi đã kể trên đây. Tuy trong điều kiện vật chất, trang thiết bị kỹ thuật công nghệ hết sức thô sơ, thiếu thốn (cho đến năm 1984, phòng duyệt hòa âm vẫn là nội thất một chiếc xe ô tô được viện trợ của nước ngoài để làm phim tư liệu ngoài mặt trận), tài chính eo hẹp trong điều kiện thời chiến… nhưng tài năng và công sức sáng tạo của họ đã làm nên những bộ phim khẳng định sức sống của một nền điện ảnh trẻ vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng, vì công chúng, khán giả và vì một bản sắc văn hóa Việt. Nhiều tác phẩm trong số đó đã vươn ra không gian điện ảnh thế giới và gặt hái những thành công mà bất cứ người nghiên cứu giới thiệu, phê bình, viết sử điện ảnh Việt Nam nào cũng đều phải bám chắc như một đối tượng được phản ánh, được nghiên cứu một cách thấu đáo...

Thời gian đã trôi qua nhiều thập niên và phần nào đã đủ để sàng lọc ra những chân giá trị vững bền cùng thời gian, giúp chúng ta tìm hiểu xem bí quyết nào, chiếc chìa khóa bảo bối nào đã giúp cho điện ảnh phim truyện nước nhà có một thế hệ văn nghệ sĩ đáng khâm phục, đáng kính trọng như thế.

Theo chúng tôi, trước hết là phải đề cao cái Tình của những người làm điện ảnh phim truyện thế hệ đầu tiên. Họ là những nghệ sĩ dấn thân trong cuộc kháng chiến 9 năm từ "thủ đô gió ngàn" Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội đang náo nức trong những ngày đầu giải phóng. Họ là những Việt kiều yêu nước từ cái nôi điện ảnh thế giới trở về tham gia xây dựng đất nước. Họ là nhiều nam thanh nữ tú, lấp ló những năng khiếu nghệ thuật thứ bảy được chọn lựa từ khắp mọi vùng miền về đào tạo tại Trường Điện ảnh Việt Nam và gửi đi tu nghiệp ở các nền điện ảnh phát triển... Tất cả mọi người trong đội ngũ ban đầu này đều sôi động một bầu nhiệt huyết, sôi động một tình yêu lớn đối với sự nghiệp xây dựng một nền điện ảnh phim truyện Việt Nam.

Cùng với cái Tình, họ có một niềm say mê, tự tin học nghề để làm nghề một cách chuyên nghiệp. Trường Điện ảnh Việt Nam được thành lập từ cuối những năm 50 của thế kỷ 20. Hầu hết những tên tuổi chói sáng nhất trong thế hệ đầu đã học tập ở ngôi trường này. Ngày nay, qua hồi ức của một số văn nghệ sĩ điện ảnh và xem lại các đoạn phim tư liệu, những trang bài giảng của các thầy giáo, các chuyên gia nước ngoài… thì thấy rõ một điều: Tuy Trường Điện ảnh Việt Nam lúc đó mới chỉ ở quy mô trường trung cấp nhưng chất lượng đào tạo không mấy thua kém các lò rèn đúc nhân tài điện ảnh ở nước ngoài. Hầu hết các thành tựu mà “làn sóng Xô Viết lần thứ hai” với các bộ phim lừng danh thế giới như: "Bài ca người lính"; "Đàn sếu bay"; "Người thứ 41"; "Một người cộng sản"... và các giá trị của chủ nghĩa Tân hiện thực điện ảnh Ý sau Chiến tranh thế giới thứ hai với các bộ phim: "Đất chuyển"; "Đoàn xiếc"; "Thằng bé ăn cắp xe đạp"; "Thành Rôm lúc 11 giờ"... đã được giảng dạy, được truyền tải đến học viên. Sự hấp dẫn của những chương học có sức lôi cuốn đến mức như ông Đặng Nhật Minh từ một phiên dịch tiếng Nga trong các buổi giảng của chuyên gia, nghệ sĩ, giáo sư nước ngoài… đã quyết tâm theo nghiệp điện ảnh và trở thành một tên tuổi lớn sau này. Tiếp đến nữa là việc “dấn thân” bằng quá trình đi thâm nhập thực tế cuộc sống. Nghệ sĩ Nhân dân Trịnh Thịnh vốn là một người Hà Nội gốc, nghề nghiệp công chức ngân hàng. Khi nhận vai Củng, nhân vật trong bộ phim "Truyện vợ chồng anh Lực" của đạo diễn Trần Vũ và kịch bản của nhà văn Vũ Lê Mai, ông đã về vùng thôn quê Thanh Hóa 6 tháng, ăn ở trong các gia đình nông dân, ngày ngày hai buổi cùng bà con nông dân ra đồng cày cấy, tối tối họp tổ đội xã viên để mong nhập cho được vai Củng, một lão nông tri điền hám lợi cổ lỗ trong thập niên 1960. Và Trịnh Thịnh đã rất thành công trong vai diễn này, góp phần vào thành công chung của bộ phim-giải Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ II. Nghệ sĩ Trần Phương cũng đã kể một câu chuyện xúc động khi ông đi thực tế ở Mù Cang Chải để vào vai A Phủ trong bộ phim "Vợ chồng A Phủ" của đạo diễn Mai Lộc. Sau nhiều ngày cắm bản, diễn viên Trần Phương được xuống phố huyện, dọc đường, ông gặp nhà văn Nguyễn Tuân cũng đang đi thực tế sáng tác. Cụ Nguyễn hỏi vui, rằng diễn viên trẻ nhập vai A Phủ thế nào? Trần Phương kể, nào ông xót thương cho tình yêu của A Phủ và Mỵ bị cấm đoán như thế nào, ông thấy được tội ác của đế quốc phong kiến gieo xuống thân phận bà con dân tộc thiểu số là vô cùng tàn nhẫn, thâm độc như thế nào... Cụ Nguyễn xua tay, lắc đầu nói: “Cái đó ai chả biết, tôi còn biết hơn ông ấy chứ. Cái tôi muốn nghe ông kể là A Phủ đi đứng, nói năng như thế nào, A Phủ xay ngô, giã gạo, phát nương làm rẫy, thổi khèn, tán gái như thế nào cơ”. Trần Phương vô cùng thấm thía câu “khai tâm” nghề nghiệp của nhà văn Nguyễn Tuân ở Mù Cang Chải năm ấy. Và lời của nhà văn tài hoa đã từng đóng phim từ thập niên 1930 này đeo đẳng suốt một đời lao động nghệ thuật của diễn viên, đạo diễn Trần Phương. Hoặc như chuyện đạo diễn Phạm Kỳ Nam đi chọn cảnh để quay bộ phim "Chị Tư Hậu" rất công phu ở các tỉnh Bắc Khu Bốn, nơi có bối cảnh bãi biển, vườn dừa, có những cảnh bị tàn phá thời kháng chiến chống Pháp và ông đã chọn được một cảnh đắc địa tại cây cầu Ròn bị sập một nửa xuống sông ở Quảng Bình. Bối cảnh này nhằm làm nổi bật hình ảnh chị Tư Hậu đang bộn bề trong cơn bế tắc tâm trạng, hoàn cảnh... Và nữa: Để có được những trường đoạn đậm đặc dấu ấn tâm linh trong bộ phim "Bao giờ cho đến tháng Mười", đạo diễn Đặng Nhật Minh cũng đã lang thang nhiều tháng ở nhiều cụm chùa chiền, đình miếu nổi tiếng của xứ Kinh Bắc và dành nhiều thời gian nghiên cứu kỹ về nghệ thuật chèo. Rồi cặp đôi Hoàng Tích Chỉ-Hải Ninh đã có những chuyến đi dài ngày ở giới tuyến Vĩnh Linh để làm nên "Vĩ tuyến 17 ngày và đêm". Còn nhiều những dẫn chứng sinh động nữa: Nhà quay phim Nguyễn Xuân Chân đã phục kích nhiều lần để quay cho được cơn lốc ở cái rẻo cát mà nhân vật thiếu tá Trần Sùng (Lâm Tới thủ vai) chạy trốn trong tuyệt vọng. Nhà biên kịch Bành Bảo, đạo diễn Trần Vũ, nhà quay phim Nguyễn Đăng Bảy, họa sĩ Đào Đức… cũng đã nhập từ thực tế làng nghề dệt lụa được một cảnh quay để đời. Đó là cảnh cô Nết (Như Quỳnh thủ vai) thu những tấm lụa phơi ở triền đê bị rối tung rối bời trong một chiều dông gió bất chợt, giống như tâm trạng đang ngổn ngang vật vã vì bị ép uổng vào cuộc hôn nhân trái khoáy của cô trong bộ phim "Đến hẹn lại lên"… Những ai đã từng làm phim với đạo diễn Hồng Sến cũng không thể nào quên được cảnh ông chìm nổi với những mùa nước lớn của Đồng bằng sông Cửu Long, lục tìm khắp xóm ấp đồng quê, khắp ngõ hẻm phố phường để săn lùng bối cảnh, săn lùng các diễn viên mới… như thế nào. Diễn viên Thúy An, người bạn đời của ông và vai diễn để đời của bà trong các phim "Cánh đồng hoang", "Mùa gió chướng"… đã được đạo diễn Hồng Sến phát hiện trong những cuộc “săn lùng” đó...

leftcenterrightdel

NSND Như Quỳnh và NSND Thế Anh, những gương mặt sáng giá của "Thế hệ vàng" Điện ảnh Việt Nam. Ảnh: Hà Anh 

Do am hiểu thấu đáo về cuộc sống của con người xã hội nên các nhà làm phim thời kỳ đầu đã xây dựng được những nhân vật thời cuộc. Mỗi bộ phim thành công đồng nghĩa với sự xuất hiện những nhân vật được yêu mến trong công chúng khán giả. Cho đến bây giờ, chắc chắn nhiều người, nhiều khán giả điện ảnh phim truyện Việt Nam vẫn nhớ đến các nhân vật phim như: Hoài (Phi Nga)-Vận (Mạnh Linh) trong "Chung một dòng sông"; bé Nga (Tố Uyên) trong "Chim vành khuyên"; chị Tư Hậu (Trà Giang) trong phim "Chị Tư Hậu"; trung úy Phương (Thế Anh) trong "Nổi gió"; Trần Sùng (Lâm Tới) trong "Vĩ tuyến 17 ngày và đêm"; Mỵ (Đức Hoàn) và A Phủ (Trần Phương) trong "Vợ chồng A Phủ"; ông Củng (Trịnh Thịnh) trong "Truyện vợ chồng anh Lực"; Riêng (Thanh Loan) trong "Người về đồng cói"; cô Nết (Như Quỳnh) trong "Đến hẹn lại lên"; Sáu Xoa (Thúy An) và Ba Đô (Lâm Tới) trong "Cánh đồng hoang"; chị Duyên (Lê Vân) trong "Bao giờ cho đến tháng Mười"...

Tiếp cận công chúng khán giả, làm phim cho công chúng khán giả là mục đích hàng đầu của những nhà làm phim thời kỳ này. Khi một bộ phim vừa xuất xưởng, tập thể văn nghệ sĩ chủ chốt làm ra những bộ phim đó bao giờ cũng đến chiếu phim và giao lưu với bà con tại các địa phương đã giúp đỡ họ trong suốt thời gian “đóng phim” để giới thiệu và để tri ân trước khi công chiếu rộng rãi toàn quốc. Và những tín hiệu đầu tiên của người xem ở các địa phương này thường phản ánh đúng chất lượng của bộ phim. Các văn nghệ sĩ điện ảnh cũng thu nhận được những ý kiến vô tư, chân thành nhất từ phía khán giả.

Đam mê và tài năng, kỹ lưỡng và cầu thị… lớp văn nghệ sĩ điện ảnh phim truyện Việt Nam thời kỳ đầu, dù tự học hay qua trường lớp đào tạo, dù tu nghiệp trong nước hay ngoài nước, dù xuất hiện sớm hay muộn... đều đã thực sự xây dựng một nền móng chắc chắn cho ngôi nhà điện ảnh phim truyện dân tộc. Họ còn nhiều những phẩm chất và tài năng khác mà chúng ta chưa có điều kiện trình bày hoặc nghiên cứu đầy đủ hơn. Hy vọng rằng, lớp người thời kỳ đầu của phim truyện Việt Nam và cả những tài năng xuất hiện các giai đoạn sau sẽ còn được tiếp tục phản ánh đầy đủ, thấu đáo và tôn vinh xứng đáng hơn nữa!

Nhà văn, nhà biên kịch LÊ NGỌC MINH