Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nguyên Hồng tham gia Phong trào Mặt trận Dân chủ ở Hải Phòng, bị địch bắt và đày lên Căng Bắc Mê ở Hà Giang. Năm 1943, ông hoạt động bí mật trong Hội Văn hóa cứu quốc của Mặt trận Việt Minh và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1996, nhà văn Nguyên Hồng được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học-nghệ thuật đợt đầu tiên.
Hồi còn học phổ thông cách nay hơn 60 năm, tôi được học truyện ngắn “Một người mẹ Trung Quốc” của nhà văn Nguyên Hồng trong sách giáo khoa. Tôi bây giờ thậm chí không nhớ rõ ràng lúc ấy sách có tên là Văn tuyển hay Trích giảng văn học nữa. Nội dung của truyện cũng không nhớ thật rõ ràng. Nhưng tôi nhớ có thằng bé con của bà mẹ gốc Hoa tên là Hoảng và câu mà người mẹ gọi nó: “Hoảng à! Khoai khoai chẩu pa!” (“Hoảng à, đi nhanh lên!”) nghe thật ngộ. Bấy giờ thầy giáo dạy chúng tôi nói rằng, Nguyên Hồng là nhà văn xuất thân từ tầng lớp “tiểu tư sản”. Với một chú bé con nhà nông dân như tôi thì hình ảnh của nhà văn tiểu tư sản chắc phải là một người dáng thư sinh, trắng trẻo, tóc bồng bềnh, mắt sáng và nhất định là phải mặc áo trắng cổ cồn. Nguyên Hồng trong trí tưởng tượng của tôi lúc ở trường làng là như vậy.
Những năm theo học Khoa Văn của Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc khóa đầu tiên (1966-1970), chúng tôi được tiếp xúc với rất nhiều nhà văn nổi tiếng đến giảng bài, nói chuyện, giao lưu... Trong đó có nhà văn Nguyên Hồng đã đi xe đạp từ huyện Tân Yên, tỉnh Hà Bắc về nói chuyện chuyên đề cho chúng tôi ở khu sơ tán thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Và tôi đã thực sự sửng sốt khi thấy Nguyên Hồng khác xa với sự tưởng tượng của tôi. Trước mắt tôi là một lão nông như tôi thường gặp ở làng mình. Bộ quần áo nâu giản dị, làn da ngăm đen, rắn rỏi và vóc dáng có phần hơi lòng khòng đậm nét lam lũ. Cặp kính của nhà văn cũng rất bình thường, chẳng có nét gì sang trọng.
Hôm đó Nguyên Hồng nói chuyện về sáng tác của mình. Nhà văn treo một tờ giấy khổ lớn với sơ đồ các nhân vật và dự định viết tiểu thuyết “Cơn bão đã đến” cho bộ tiểu thuyết 4 tập “Cửa biển”. Và thật kỳ lạ là nhà văn rất dễ xúc động. Nói về nhân vật Gái Đen, ông không cầm được nước mắt. Sau này đọc các bài viết về Nguyên Hồng của các tác giả như: Tô Hoài, Hoàng Ngọc Hiến, Lê Lựu… tôi đều thấy viết về tính dễ mủi lòng, dễ khóc của nhà văn. Lần gặp gỡ Nguyên Hồng trong rừng Việt Bắc ấy cũng là lần gặp gỡ duy nhất của tôi với nhà văn khả kính. Sau này, tôi chỉ có điều kiện gặp nhà văn trong các bài báo, trong các giai thoại, trong những bài viết về tác phẩm của Nguyên Hồng và đặc biệt là trong những trang sách giáo khoa, giáo trình mà tôi có vinh dự được giảng dạy cho các thế hệ học sinh, sinh viên của mình.
Quá trình cải cách giáo dục mấy chục năm qua, nội dung sách giáo khoa các cấp đã có nhiều thay đổi, nhưng sách giáo khoa THCS (trước đây gọi là cấp 2) luôn luôn có mặt đoạn trích nổi tiếng “Trong lòng mẹ” của nhà văn trích từ tác phẩm hồi ký “Thời thơ ấu”. Đây là một đoạn trích rất hay, rất xúc động về tình cảm mẹ con. Có nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng, Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và trẻ em. Quả thật, với tuổi thơ nhiều biến động và nhạy cảm, nhà văn đã viết về tình mẫu tử thật cảm động. Đoạn trích này có trong sách giáo khoa THCS chỉnh lý năm 1995. Sau khi có chương trình và bộ sách giáo khoa mới của Nhà xuất bản Giáo dục năm 2004, tác phẩm vẫn được bố trí học ở lớp 8 cho đến bây giờ.
Đối với sách giáo khoa Ngữ văn của cấp THPT, khi có chủ trương một chương trình, nhiều bộ sách, nhóm tác giả của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I đã chọn truyện ngắn “Mợ Du” của Nguyên Hồng đưa vào sách Ngữ văn lớp 11. “Mợ Du” cũng là truyện nói về số phận bi đát của một người mẹ và tình mẫu tử sâu thẳm, thiêng liêng. Người đàn bà ấy phải bỏ con, bỏ gia đình đi nơi xa. Nhưng tình cảm với con trai đã thôi thúc mợ lén lút trở về, lén lút gặp con. Tình cảm ấy cũng tựa như tình cảm của chú bé Hồng với mẹ trong “Thời thơ ấu” của tác giả. Đây là tác phẩm nhà văn viết khi mới ở độ tuổi ngoài 20, nhưng đã thể hiện sâu sắc tinh thần nhân đạo, khẳng định phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ, bênh vực tinh thần dám sống cho tình yêu, dám chống lại định kiến hẹp hòi của xã hội. Khi Bộ Giáo dục và Đào tạo thay đổi chương trình môn Ngữ văn, đoạn trích “Huệ Chi trước lễ cưới” trích từ tiểu thuyết “Khi đứa con ra đời” trong bộ tiểu thuyết “Cửa biển” của Nguyên Hồng được đưa vào tài liệu giáo khoa thí điểm lớp 12, rồi được học chính thức ở lớp 12. Năm 2000, sách giáo khoa được chỉnh lý và hợp nhất, tác phẩm vẫn có mặt. Nhân vật Huệ Chi cũng là nhân vật nữ được nhà văn ưu ái chăm sóc. Và đoạn trích cho thấy tình cảm nhân đạo thống thiết của Nguyên Hồng khi nhà văn cảm thông sâu sắc với những số phận bất hạnh nhất trong xã hội cũ, đặc biệt là người phụ nữ.
Nguyên Hồng là nhà văn được hầu như tất cả bạn viết nể trọng, yêu mến. Ông từng làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Hải Phòng; tham gia Ban phụ trách Trường Bồi dưỡng lực lượng viết văn trẻ (anh em yêu mến gọi đùa là ông đốc Hồng); Ủy viên Ban Văn học công nhân của Hội Nhà văn Việt Nam... Ở cương vị nào ông cũng có những dấu ấn đóng góp cho phong trào chung. Cũng hiếm có nhà văn nào như Nguyên Hồng mà cuộc đời và giai thoại đã được đồng nghiệp dày công sưu tầm, in thành một cuốn sách dày hơn 200 trang sau ngày ông mất vào năm 1982...
Với riêng tôi, tôi vô cùng ấn tượng về một nhà văn sớm thành danh, suốt đời lao động văn chương bền bỉ, sống giản dị, ăn vận xuềnh xoàng. Và đặc biệt, tôi vô cùng kính trọng và ngưỡng mộ sự tinh tế và sâu sắc của Nguyên Hồng dù chỉ một lần trực tiếp nghe ông lên lớp. Kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn Nguyên Hồng, tôi ghi lại mấy dòng này mong rằng tác phẩm của nhà văn sẽ mãi mãi đồng hành với các em học sinh từ bậc tiểu học, THCS, THPT... lên đến đại học. Bởi vì Nguyên Hồng là nhà văn lớn; là nhà văn của những người lao động, thợ thuyền; là nhà văn của tình thương, của “chủ nghĩa nhân đạo thống thiết” trong văn học Việt Nam hiện đại.
PGS, TS VŨ NHO