Từ hộp thư của người lính biển
(Kính tặng cán bộ, chiến sĩ hải quân Lữ đoàn 170)
Chia tay
những người lính biển trao tôi mảnh giấy
vẻn vẹn dòng ngắn ngủi:
“Hộp thư 6KE-292”
Địa chỉ nhà binh gợi nhớ một thời
nửa dân tộc khoác ba lô ra trận
nửa ở lại mấy mươi năm trắng tóc
những hộp thư đưa thoi dệt khát vọng bình yên.
Tưởng đã chìm trong vô vàn nhớ quên
thời sóng điện thoại nhiều hơn sóng biển
vậy mà giữa lòng tay tôi
dòng chữ nhỏ nhoi
bỗng dào lên bao nhiêu là thương mến
Soi vào địa chỉ các anh
gặp trùng trùng xanh
dịu dàng sóng hát
quân cảng chiều rộn rã sức trai
những con tàu gối đầu lên ngực vịnh
nắng tinh khôi
những cánh trắng tinh khôi.
Gặp bước chân rầm rập sang ngày
mùa huấn luyện, tàu khác gì chảo lửa?
Nếu mồ hôi không tan vào nắng gió,
làm mặn thêm biển khơi,
chắc đầy ắp khoang tàu!
Bát cơm chuyền tay, ca nước ngọt chia nhau
khoang tàu chật nên vui buồn nén lại
hầm tàu nóng mà khát khao cháy mãi
hải đội là nhà, thương nhớ chẳng của riêng.
Soi vào hộp thư
thấy ngày không bình yên
khi thời cuộc như bàn cờ thế
những tham vọng, mưu mô nhân danh tình nghĩa
muốn nuốt chửng cả chân trời
Là lính, không thể nào khác được
mỗi con sóng cũng là Tổ quốc
mỗi đảo đá từng in dấu chân người đi trước
có các anh gìn giữ đêm ngày.
Là lính, nghĩa là con của đất
giữa biển khơi, lòng vẫn đất liền
soi vào hộp thư tôi gặp những nụ cười
mát lành châu thổ
gặp cả ánh mắt người chỉ huy năm nào
góp máu tim mình cho sóng về đất mẹ
đồng đội giữ linh hồn anh ở lại
mỗi chuyến ra khơi, có tiếng anh dõng dạc điểm binh.
hoa sóng đêm đêm vẫn hát tên người đã hóa muôn trùng
Và tôi hiểu vì sao
biển lại thiêng liêng đến từng giọt nước.
Đêm nay giữa phố phường
nghe sóng dội từ muôn dòng chảy đời thường
tôi nghĩ về những người mang hộp thư
và những con tàu chưa bao giờ ngủ
Nếu một ngày sự yên bình của xứ sở này có thể không còn
thì họ, những người mang hộp thư,
cùng những con tàu
lại hành quân ra trận
như năm xưa “ra đi ra đi bảo tồn sông núi”
đem bình yên về cho mặt trời lên.
Hộp thư nhỏ nhoi như trái tim
đập kiêu hãnh nơi đầu ngọn sóng
những trái tim cho tôi tin cuộc đời còn khát vọng
như tin biển trời mãi là trong sáng
muôn đời trên đất nước tôi.
--------------
Một sáng Đồng Văn
Vừa mới sáng đã gặp em góc chợ
Hẳn em đi khi lá rừng còn ngủ
Bó củi to trùm lên lưng nhỏ
Từ bản nào xuống vậy, bé ơi?
Mưa Đồng Văn, đá cũng sũng nước rồi
Có chiếc ô, em che lên củi
Củi ướt ai mua. Làm sao đem về núi?
Mưa vô tình lây ướt cả sang tôi.
Phiên chợ ngày mưa thưa thớt bóng người
Em cõng củi dầm chân đứng đó,
Tôi khoác túi bồn chồn về phố
Có vệt khói dài lặng lẽ theo sau.
---------------
Thơ về nhà mình
(Tác phẩm trong chương trình địa phương Thái Nguyên)
Nhà mình chỗ nào cũng chật
Mùa đông giá rét đỡ lo
Nhà mình thứ gì cũng nhỏ
Chỉ những tiếng cười là to
Nhà mình tiền luôn rỗng túi
Nợ vay đâu chỉ áo cơm
Lòng tốt bao người đem tặng
Làm của để đời cho con
Nhà mình nhiều chuyện buồn lắm
Các con là cả nguồn vui
Vũ trụ nhà mình bé nhỏ
Mà sáng những hai mặt trời
Nhà mình cái gì cũng khuyết
Chỉ niềm hy vọng tròn đầy
Mẹ cha dù là khuất núi
Con không bao giờ trắng tay.
Gửi đầu nguồn
Bơi trong dòng đời, không sao dứt được
Tháng Chạp
Bỗng thèm được một ngày mắc lại
Để lội ngược sông Cầu về phía nước còn trong
Để ngắm hoa mận xòe lời chào trắng muốt
Những nương cải đổ nắng sườn non
Nhịp ngựa thồ gõ rộn sớm mai
Bếp "cống phù" lập lòe dốc đêm thơm nức
Để được chạm tay vào thành cầu cũ
Nghe sỏi thầm thì kể chuyện dưới lòng sâu
Ngắm triền ngô nắng gió bao mùa
Vẫn nhưng nhức đợi người xa xứ
Câu "Nàng ới" đang phiêu dạt chốn nào
Có theo tay nải ai về chợ phiên hai tám?
Bánh khảo bọc giấy điều có còn thơm nếp nương?
Bạn còn cặm cụi hong lạp xường đợi tôi về ăn Tết?
Rùng rình những chuyến xe lên ngược
Cho tôi gửi câu thơ
góp nhành xanh nhỏ với đại ngàn
Đầu nguồn ơi, xin mãi là trong trẻo
Để tôi còn chốn ước ao.
-------------
Một chuyến xe khách
Họ có mười chín người
những đồng hương không quen biết của tôi
những thanh niên măng tơ
vừa lên xe là xin túi chống say
những trung niên
nhựa chè đen kịt móng tay
rổn rảng nói cười.
Họ nói với tôi về chuyến bay đầu tiên trong đời
về giấc ngủ đêm mai ở một vùng sa mạc
nơi đồng đô la chảy thành dòng lên mặt đất
nơi những giọt mồ hôi không kịp lăn xuống cát
nhìn cánh đồng óng vàng
vùn vụt trôi ngoài cửa xe
họ bảo: Từ mai không phải cầm liềm hái
dẫu sớm nay có người
vừa gặt xong sào lúa mới đi.
Mười chín người đàn ông
chăm chắm một hướng nhìn phía trước
chỉ những sợi tóc bay theo ý nghĩ
về bản làng đang lùi mãi xa
nơi những rừng cọ, đồi chè
những “truyền thống”, “tiềm năng”
không níu được chân người ở lại.
Ôi, quê tôi
mỗi ngày bao nhiêu chuyến xe đưa người?
bao nhiêu người đàn ông hăm hở vận may
bán mồ hôi xứ dầu?
bao nhiêu người đàn bà gửi lại con mình,
vượt trùng khơi nuôi con thiên hạ?
bao nhiêu người già ngồi hóa thạch đầu sàn?
bao nhiêu bé lớp một đến trường
không cha đưa mẹ đón?
Mai này
hết thảy trẻ con làng đều trở thành kỹ sư, bác sĩ
dân quê tôi giàu như dân Âu, Mỹ
Có ai dựng tượng đài
cho cả giọt mồ hôi người xa xứ hôm nay?
Thái Nguyên, 2007
-------------