Nhà thơ Trần Quang Đạo sinh ở Lệ Thủy, Quảng Bình. Nhập ngũ tháng 2 năm 1975, biên chế vào Sư đoàn 341 Quân khu 4. Đã từng sống, chiến đấu, xây dựng quân đội ở biên giới Việt Nam-Lào và biên giới phía Bắc từ năm 1978. Tốt nghiệp Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I (nay là Trường Đại học Sư phạm Hà Nội). Học vị Tiến sĩ Văn chương. Ra quân năm 1990. Làm báo Nhi đồng từ phóng viên đến Tổng biên tập.
Đã in 12 tập sách, bao gồm: Thơ, tiểu thuyết, phê bình văn học...
Giải thưởng văn học: 5 giải thưởng và tặng thưởng thơ hay hằng năm của Tạp chí Văn nghệ Quân đội; giải nhì tiểu thuyết cuộc thi của NXB Kim Đồng; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam...
Hiện nay sống, làm thơ, viết văn, viết nhạc, vẽ tranh... ở Hà Nội.
|
Trên núi
Tặng Trần Hùng
Đá ngồi mốc thếch gió về gãi ngàn năm
mây về cho tóc bạc
cây rừng lá rụng chẳng theo mùa
chim đến hót nhặt thưa sợ cành cong ngày trước.
Những người dân quanh quẩn với ruộng nương
bàn chân họ như com-pa
vẽ vòng đi mà tâm là ngôi nhà vá đụp
họ không đi xa sợ gió mưa giăng bẫy lối về.
Họ trằn mình với đất đai đã mèm cũ bao đời
lăn lóc với lúa ngô nhiều năm thất bát
(những thứ gì quý nhất
người dưới xuôi lên bòn mót hết rồi).
Trên núi cô đơn cả tiếng gà
tiếng chó sủa hộc vọng âm vực thẳm
người dân cố cất đầu-vung trời úp sẵn
chôn chân làm phên giậu truyền đời...
Bao lần kẻ thù sang
họ luôn là hàng rào thứ nhất!
Bến đỗ
Suốt dòng trôi
tìm bến đỗ đời mình nơi có neo cột khói
nơi có vệt chổi loang vun lại thành những đống chiều
tiếng bát đũa vang thanh âm đoàn tụ.
Nghe đơn sơ nẻo về bình dị
lang thang dấu chân tìm kiếm mỏi mòn
những bến đỗ buông neo tưởng suốt đời ở lại
mà lòng trôi theo chốn cánh buồm đi.
Dẫu tạ lỗi ngàn lần dễ gì tha thứ được
ta một thôi mà rời bến bao lần!
mảnh buồm vá-sông còn dài thương đời mình đơn độc
những bến chiều chưa ghé đã rời xa.
Suốt cuộc đời
tìm bến đỗ nơi đằm sâu nỗi nhớ
tượng hình lên từng khoảnh khắc đời mình
ta vừa thuyền vừa bến tiễn đưa nhau...
Tình đầu
Cô ấy có một tình yêu thứ nhất
Áo cưới bao năm chờ đợi im lìm
Người lính ra đi và trở về tờ giấy
Chôn mười năm hy vọng tuổi xuân thì.
Tôi đến sau thương một thời xưa cũ
Nhiều đêm nghe quá khứ trở mình
Cô ấy thức về tình yêu thứ nhất
Nước mắt nhiều muối mặn thấm vào tim.
Mờ xa ấy một gương mặt người lính
Tình tôi nuôi không xóa hết u sầu
Cô yêu tôi bằng tình thương tận tụy
Tôi thương người lính trong cô chưa đi quá
cái hôn đầu.
Tôi đến sau như một người thất lễ
Ướt mắt nhau trống vắng cố lấp đầy
Tình yêu trong tôi nhân hai lần yêu dấu
Có một phần người lính ấy còn đây...
10-4-1996
Mẹ đi máy bay
Cuống vé như cánh đồng được mùa
mẹ cất kỹ trong túi áo nâu cài kim băng kín miệng
sợ mất đi là mất cả mùa màng.
Mẹ đi máy bay
trầu cau ấm một khoang ngồi
mùi rơm rạ lót trong kẽ tay còn phảng phất
lòng mang đầy ca dao.
Mẹ bay lên trời cao
xác lập một vế đối với nền văn minh nhập khẩu
đám mây lắc
lời ru thầm càng đầy
máy bay đỗ miếng trầu chưa kịp dập.
Nơi mẹ đến vừa có tiếng trẻ khóc nứt đêm
con trai làm ăn xa
thêm một quê hương của bé ra đời.
Không để quê nhà rụng rơi
mẹ lên máy bay cả cánh đồng nghiêng nghiêng
phía dưới
khứ hồi một giấc mơ...
8-12-2006
Nhẫn trăng
Cho K.L
Có một nhẫn trăng lấp ló tròn đầy
Em gìn giữ hào quang của tình yêu bền bỉ
Một đời khép những chuỗi ngày đơn lẻ
Vòng thời gian năm tháng kết liền.
Anh đi xa vầng sáng ở trên đầu
Tròn vành vạnh giữa trong xanh cổ tích
Anh cúi xuống suối trong màu ngọc bích
Nhẫn trăng rơi lấp loáng mắt cười.
Có một nhẫn trăng ở mỗi cuộc đời
Em giận dỗi đau một màu trăng khuyết
Anh nóng giận mây đen trùm ánh biếc
Nhưng bao giờ cũng vành vạnh rằm lên.
Bao giờ rồi em cũng kề bên
Những nẻo trăng vẫn về trong trí nhớ
Dẫu xa nhau bao mùa cách trở
Vẫn tròn đầy nhẫn trăng thuở trao nhau.
1-6-1995