Chưa kịp để Phong hỏi thăm tình hình bà con, công việc làm ăn của gia đình, ông Y Hơ đã tất tả về ngay để lo chuẩn bị sau khi nhận lời hứa của anh. Nhiều việc lắm anh Phong ạ, phải phân công nhau ra mà làm. Nào chuẩn bị vòng đồng chúc sức khỏe, nào rượu cần, thịt heo, tập cho đội chiêng đánh điệu đón bạn... Ngày hội lớn về chung một nhà của các buôn làng, bao nhiêu bạn bè ở các buôn lân cận nghe tiếng chiêng, nhận lời mời về chứng kiến, làm sao mà không chu đáo cho được.
Nhìn khuôn mặt rạng rỡ cùng dáng vẻ nhiệt tình của Y Hơ, không ai nghĩ cách đây độ chục năm, vì nghe theo lời kẻ xấu mà gia đình ông lâm vào cảnh kiệt quệ, tưởng chừng như không tìm ra lối thoát. Thi thoảng kể lại chuyện này cho đám thanh niên trong buôn nâng cao cảnh giác, ông Y Hơ vẫn còn thấy sợ hãi, chưa thoát ra khỏi ám ảnh của những ngày như sống trong địa ngục.
Ngày ấy, gia đình ông đang canh tác gần hai héc-ta cà phê, tuy không giàu nhưng cần cù, chịu khó cũng đủ ăn đủ mặc, lo cho con cái chuyện học hành rồi bắt chồng cưới vợ. Nhưng vì mộng giàu sang, ông đã nghe theo lời kẻ xấu lợi dụng, xúi giục, bán sạch gia tài để ôm mộng đi Tây. Những kẻ lôi kéo hứa chắc như đinh đóng cột với gia đình ông rằng sẽ được các tổ chức lo cho đi định cư ở nước ngoài, cuộc sống sung sướng, tiền tiêu không hết. Ông bán sạch nhà cửa, đất đai, thuyết phục cả đứa con dâu đang mang bầu cháu nội đưa hết gia đình lên đến mười lăm người lao theo giấc mộng đổi đời ấy.
Trong lúc chờ được đưa sang phương Tây hiện đại, giàu có, mười lăm người nhà ông vượt biên, phải sống trong căn phòng thuê chật chội, hôi hám, trong cảnh chui lủi, tủi hổ, mòn mỏi không lối thoát, bị khống chế cả về thể xác lẫn tinh thần. Số tiền bán nhà, bán rẫy cạn dần theo những lần đưa cho kẻ môi giới với lý do “chạy” cho các tổ chức sớm can thiệp đưa gia đình ông đi định cư. Mười lăm con người bó gối nhìn nhau trong phòng trọ chật hẹp, tăm tối, tưởng như không khí cũng chẳng đủ để thở. Ba ngày một lần mới được luân phiên nhau ra ngoài cho đỡ cuồng chân bằng việc đi chợ. Mà cũng chẳng được tự do đi như lúc còn ở nhà. Vợ ông bắt đầu mất ngủ, mắt cứ trừng trừng nhìn vào mảnh tường nhà trọ lở lói. Dần dần, bà như một cái xác không hồn với đôi mắt trũng sâu, thân thể quắt queo như bộ xương khô vì không ăn, không ngủ.
Đến khi ông Y Hơ cạn tiền, kẻ đã vẽ cho ông giấc mộng giàu sang trở mặt. Ông đòi về thì gã hù dọa, xuyên tạc rằng, ông cùng những người vượt biên trở về là sẽ bị bắt, bị bỏ tù cho rục xương. Vì lời đe dọa đó mà ông cùng biết bao người hoang mang, lo sợ, mòn mỏi từng ngày nơi đất khách quê người không dám trở về.
Tình trạng của vợ ông ngày càng trầm trọng. Đứa con dâu sống trong sợ hãi vì không biết chui lủi, thiếu thốn thế thì sinh nở kiểu gì. Nhìn cả nhà, ông hối hận đến bật khóc. Không được! Có chết cũng chết trên đất ông bà mình. Quay đầu thì sau này hồn mới được về cõi A-tâu.
May mắn được sự giải cứu của Bộ đội Biên phòng và lực lượng chức năng, vợ chồng ông cùng con cháu được trở về quê. Đêm đầu tiên về lại quê nhà, xin ở nhờ trên chòi canh cà phê của người hàng xóm, nghe tiếng gió đưa âm điệu của con thác, dòng suối hiền hòa như lời vỗ về, an ủi, vợ chồng ông nhìn nhau nghẹn ngào. Vì trót tin người, ham hư vinh mà ông đưa ra quyết định sai lầm, đẩy cả gia đình vào cảnh khốn khó, mất sạch gia tài. Vợ ông khóc rưng rức. Bao nhiêu ngày câm lặng, về đến mảnh đất ông bà, bao nhiêu uất ức, ngậm ngùi, hối hận, tiếc nuối trôi theo dòng nước mắt mặn chát. Sau trận khóc ấy, bà hồi phục như chưa từng bị bệnh tật giày vò, ám ảnh.
Chẳng còn đất, không còn nhà, người chủ mới thương tình cho mượn một góc, bà con buôn làng chung tay mỗi người giúp một chút dựng lên mấy gian nhà tôn che chắn nắng mưa cho cả gia đình ông. Khó khăn nhưng không còn tủi nhục, sợ hãi. Rồi thì chịu khó làm ăn cũng sẽ đến ngày vực lại được.
Ông Y Hơ Êban mời Phong đến trước một đêm để mấy anh em cùng tâm sự. Cán bộ cũng phải đến thăm căn nhà mới của mình chứ. Nhà được Bộ đội Biên phòng xây cho mà. Hôm khánh thành nhà, Phong đang đi học nên anh em trong đồn đến dự. Sau lần nhẹ dạ cả tin đến mất cả gia sản, ông Y Hơ tỉnh ngộ, quyết tâm làm lại từ đầu. Mấy bố con bảo ban nhau làm thuê cuốc mướn, tiết kiệm dành dụm để mua từng sào rẫy, gây dựng lại vườn cà phê, vườn tiêu trồng xen cây ăn trái. Để không có người bị lừa như mình, ông đến tận các buôn, các bản xung quanh kể lại cuộc sống đầy ám ảnh mà ông đã trải qua. Ông dần trở thành người có uy tín trong vùng, được bà con tin tưởng, giúp đỡ. Gia đình ông định bụng cố gắng chắt chiu mua lấy vài sào rẫy trước, chăm chỉ làm lụng từ rẫy sẽ tiết kiệm được tiền để dựng lại căn nhà be bé, vững chãi, kiên cố hơn. Biết hoàn cảnh của ông, cũng là để động viên gia đình ông làm lại cuộc đời, đồn biên phòng phối hợp cùng các cấp, các ngành địa phương hỗ trợ xây cho gia đình ông một căn nhà mới trên mảnh đất rẫy người chủ chấp nhận bán lại một phần với giá rẻ. Chỉ sau gần một tháng từ lúc khởi công, cả gia đình ông đã được chuyển vào nhà mới, không còn sợ nắng chiếu, mưa dột.
***
Rót cho Phong ly trà an xoa có tác dụng mát gan, thải độc hái tận trong rừng, phơi khô rồi sao vàng hạ thổ, ông Y Hơ tự hào khoe đứa cháu ngoại đầu tiên đã trở thành thành viên của đội cồng chiêng. Đêm mai, nó sẽ đánh nhịp chiêng đón khách. Đêm mai, bên ánh lửa sáng soi xua tan đêm tối, bà con từ buôn Ea Bông, buôn Nui, buôn Cháp, buôn Sut Mđưng, buôn Drai Sí sẽ cùng quây quần trong giờ khắc trở thành anh em một nhà.
Bà con đã kéo đến nhà ông Y Hơ để chuẩn bị, tiếng cười nói rộn rã. Những ché rượu cần đã được mang ra. Heo thiến, gà cúng, gạo nếp đã chuẩn bị sẵn. Sớm mai, trước năm giờ sáng, già làng của các buôn phải có mặt để chứng kiến chủ buôn Nui mổ heo, chuẩn bị lễ vật, buộc ché rượu cần, gùi nước, chặt lá chuối. Rồi cồng chiêng ngân lên khắp nhà dài, bên mâm cơm cùng lễ vật dâng lên Yàng, dâng lên các vị thần, thầy cúng tiến hành nghi lễ. Mời các thần linh, ông bà, tổ tiên về chứng giám, kể từ buổi lễ này, các buôn quanh suối Ea Hnui sẽ thành một dòng máu, như anh em ruột thịt sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, yêu thương giúp nhau lúc khó khăn, bảo ban nhau làm ăn, xây dựng buôn làng ấm no, bảo vệ nhau đến đời con cháu mãi sau và mãi muôn đời.
Người Ê Đê mình hiền lành như cây rừng, lòng trong như nước suối. Người nào rắp tâm làm hại bà con buôn làng mình sẽ bị các thần trừng phạt. Uống chung một bầu rượu cần này, đeo vào tay nhau chiếc vòng đồng thiêng liêng này, mình sẽ thành anh em một nhà.
Ông Y Hơ dẫn Phong đứng trước mâm đựng những chiếc vòng đồng dành tặng khách quý, tặng chủ lễ, những người chứng kiến và trao cho người đứng đầu các buôn làng. Thiêng liêng lắm. Trong mỗi chiếc vòng chứa lời chúc phúc, lời chúc sức khỏe và may mắn. Ông Y Hơ khẽ bảo, đeo vòng đồng vào tay rồi, được thần linh chứng giám, từ đây không ai dám làm điều xấu nữa. Chiếc vòng đồng theo người mình từ lúc chào đời được nếm giọt sương, làm lễ đặt tên rồi lễ thổi tai, lễ trưởng thành, lập gia đình, sinh con cho đến lúc mừng thọ và cuối cùng là về với ông bà. Chiếc vòng đồng mãi mãi là sự kết nối bền vững mình với nguồn cội. Vậy mà mình suýt nữa đã đánh mất. May mắn được về lại mảnh đất ông bà, mình mới biết đây là đất thiêng, đất quý.
Phong lắng nghe lời ông Y Hơ bộc bạch, lắng nghe tiếng bà con rộn ràng chuẩn bị. Đêm nay buôn làng không ngủ. Ngày mai chiêng sẽ ngân dài. Tiếng chiêng thiêng liêng gắn kết cội nguồn, thắt chặt tình đoàn kết, gột rửa những điều xấu xa, tội lỗi.
Mặt trời đã bắt đầu lên từ phía Ea Hnui.
Những người dân chất phác, thật thà như ông Y Hơ trong "Mảnh đất thiêng" của Đào Thu Hà chỉ vì một phút yếu lòng, dao động nhất thời trước lời dụ dỗ đường mật của kẻ xấu mà trở nên lầm lạc, sa ngã vào bóng tối. Chẳng có miền đất hứa nào bằng chính quê hương. Để có được sự “giác ngộ” từ lương tri, đó là sự tự thân thay đổi của mỗi người. Nhưng để “neo giữ” họ ở lại với “nẻo thiện” thì cần có những anh Bộ đội Biên phòng như Phong-những người đã âm thầm ngày đêm làm nhiệm vụ vận động quần chúng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vùng biên giới để bình yên được giữ mãi ở mỗi buôn làng nơi biên cương Tổ quốc. (Nhà văn HOÀNG ANH TUẤN)
|
Truyện ngắn của ĐÀO THU HÀ