Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ…
Đứa nào bắn anh đó?
Súng nào nhằm trúng anh?
Khôn thiêng xin chỉ mặt,
Gọi tên nó ra, anh!
Tên nó là đế quốc?
Tên nó là thực dân?
Nó là thằng thổ phỉ
Hay là đứa Việt gian?
Khóc anh không nước mắt,
Mà lòng đau như thắt,
Gọi anh chửa thành lời
Mà hàm răng dính chặt.
Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán…
Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung!
HOÀNG LỘC
Lời bình của nhà thơ Nguyễn Thanh Khê:
Nhà thơ Hoàng Lộc sinh năm 1920 ở Bình Giang, Hải Dương. Khi đang đi học ở Hà Nội, chàng thanh niên ấy đã sáng tác thơ. Tuy vậy, người ta vẫn thường ít nhắc đến hai tập thơ Từ tịch dương đến bình minh và Lời thông điệp của Hoàng Lộc. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, Hoàng Lộc đi bộ đội, trở thành phóng viên mặt trận của Báo Xông pha sau đó vào năm 1948 ông được điều động về làm việc tại Báo Bắc Sơn, rồi về công tác tại Báo Vệ quốc quân-một trong hai tờ báo tiền thân của Báo Quân đội nhân dân hiện nay-ở Chiến khu Việt Bắc.
Quãng đời phóng viên mặt trận của nhà báo Hoàng Lộc được ghi dấu bằng tập ký sự
Chặt gọng kìm Đường số 4, viết về Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông năm 1947 bộ đội ta tiêu diệt cánh quân đường bộ của địch hòng “siết chặt gọng kìm” tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến. Nhưng với tư cách nhà thơ thì thi phẩm
Viếng bạn nổi tiếng đã gắn liền với tên tuổi Hoàng Lộc.
Theo các tài liệu tin cậy còn được lưu trữ, thì Hoàng Lộc viết Viếng bạn vào năm 1947. Nhiều nhà nghiên cứu cho đây là bài thơ đầu tiên viết về liệt sĩ của Quân đội nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở nước ta. Bài thơ ra đời đã bảy mươi năm nhưng hôm nay đọc lại vẫn rưng rưng xúc động bởi tình cảm mãnh liệt, cấu tứ giản dị, hình ảnh gần gũi, ngôn từ mộc mạc của nó…
Nhìn ở góc độ số phận con người thì có lẽ người lính trong chiến tranh chịu nhiều nghiệt ngã nhất. Trong bom đạn, cái chết luôn luôn rình rập và ập đến bất cứ lúc nào với họ:
Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ…
Thế đấy, có lâu lắc gì đâu, mới hôm qua còn… mà hôm nay đã… Hôm qua, bạn mình, đồng đội mình còn đi đứng nói cười thế mà hôm nay đã nằm im dưới mộ. Chỉ mấy câu thôi, cái tàn khốc của chiến tranh đã hiện lên rất rõ; rõ đến mức ai cũng hình dung được những mất mát thường ngày trong thời bom đạn. Sự gian khổ, thiếu thốn của bộ đội ta cũng được khắc họa qua mấy nét chấm phá trong thơ. Người hi sinh không có cả gỗ ván để đựng giữ thi hài mà chỉ được đồng đội Vùi anh trong tấm chăn/ Cửa đồng bào Cửa Ngăn/ Tặng tôi ngày phân tán... Cùng với hình ảnh chặt cành đắp cho người dưới mộ, tình đồng chí hiện lên thật cụ thể, sâu nặng. Tình đồng đội ấy ta gặp nhiều trong thơ kháng chiến, như Chính Hữu từng viết: Áo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá/ Miệng cười buốt giá/ Chân không giày/ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay… (Đồng chí).
Điều rất nên chú ý ở những bài thơ viết về đau thương mất mát thời kháng chiến là tuy xót xa tiếc nuối nhưng không hề bi lụy, mà trái lại vẫn tràn đầy niềm tin chiến thắng. Nỗi đau không làm con người quỵ xuống mà luôn nâng chiến sĩ đồng bào đứng lên, xốc tới để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù tàn bạo. Trong tác phẩm Viếng bạn, người sống đã nén nỗi đau, gạt nước mắt để nhìn thẳng vào quân giặc. Giặc là ai? Những câu hỏi tu từ được đặt ra liên tiếp cũng chính là những khẳng định kẻ thù của dân tộc trong giai đoạn lịch sử cam go ấy: Đứa nào bắn anh đó?/ Súng nào nhằm trúng anh?/ Khôn thiêng xin chỉ mặt,/ Gọi tên nó ra, anh!/ Tên nó là đế quốc?/ Tên nó là thực dân?/ Nó là thằng thổ phỉ?/ Hay là đứa Việt gian?
Kẻ thù của dân tộc đã được chỉ mặt vạch tên, chẳng có chút mơ hồ nào ở đây cả. Căm thù và thương xót hòa trộn vào nhau, rất thật, trong diễn đạt của những câu thơ ngũ ngôn được nén lại đến se sắt, nhức buốt: Khóc anh không nước mắt/ Mà lòng đau như thắt/ Gọi anh chửa thành lời/ Mà hàm răng dính chặt. Ta nghe rõ những tiếng nấc nghẹn của người sống trong những âm tiết có dấu sắc (mắt, thắt) và dấu nặng (chặt). Đó cũng là cách lý giải vì sao dân tộc Việt Nam đã chiến thắng những kẻ thù xâm lược thường giàu mạnh gấp bội ta về kinh tế và quân sự. Sự căm thù giặc, lòng yêu nước thương dân, tình đồng đội đã cộng hưởng vào nhau tạo nên sức mạnh to lớn và bền bỉ của chiến sĩ ta trong hai cuộc trường chinh vĩ đại dưới ngọn cờ của Đảng để giải phóng đất nước, giành lại độc lập tự do hòa bình cho nhân dân. Tinh thần đó xuyên suốt ba mươi năm (1946-1975) mà ngay trong bài thơ đầu tiên viết về liệt sĩ, nhà thơ Hoàng Lộc đã thể hiện rất đậm:
Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung.
Giá trị nội dung và nghệ thuật lâu bền của bài thơ Viếng bạn là ở đó. Nó có công mở ra một dòng thơ tưởng niệm và tri ân những người đổ máu vì Tổ quốc bảy mươi năm qua.