Những con chữ từ trái tim
“... Cô bình dị đến mức thật khác, không ai có thể nhận ra người giáo viên dạy giỏi và nhiệt huyết đứng trên bục giảng mỗi sáng mai ấy mà thay vào đó cô như người lữ khách tất bật, hối hả trên chặng đường mưu sinh... Người mà mỗi sáng thường ngày vẫn đứng trên bục giảng để nhắc nhở và dạy bài học làm người cho chúng tôi, đang đơn côi trong cơn mưa chiều tê tái. Cô cũng vậy, một chút đột ngột lúc ban đầu khiến cô ngại ngùng và nín lặng, tôi lấy hết số rau ấy cho cô và quay đi với nỗi niềm sâu kín, nặng trĩu trong lòng. Bao nhiêu ẩn số, bao nhiêu câu hỏi mà tâm trí của tôi muốn được biết, muốn được giải đáp...”.
Đó là những dòng chữ mà Đại úy Trịnh Ngọc Quý viết về cô giáo của mình, đã chạm vào trái tim người đọc. Bài dự thi anh viết về tình cảm của cậu học trò nghèo và cô giáo dạy Toán năm lớp 10. Câu chuyện Quý kể cách nay đã gần 20 năm. Đó là lần bạn bè tụ tập, Quý ra chợ mua rau, đến lúc trả tiền thì nhận ra người bán rau chính là cô giáo Nguyễn Thị Lý dạy anh môn Toán. Sự ngại ngùng của cô giáo và sự ngỡ ngàng, thương cảm của cậu học trò khiến cả đôi bên đều lúng túng... Hình ảnh cô và cảm xúc khi ấy đã “đóng đinh” vào tâm hồn cậu học trò nhỏ. Sau cuộc gặp ấy, cậu học trò rất thương cô. Cậu tìm hiểu và biết được hoàn cảnh gia đình cô vô cùng khó khăn, chồng cô là thương binh... nhưng hằng ngày lên lớp cô vẫn tận tình dạy bảo, giúp đỡ học sinh từng cây bút, quyển vở.
|
|
Đại úy Trịnh Ngọc Quý chăm sóc cảnh quan của đơn vị. |
Bằng lối kể mạch lạc, chân thành, không màu mè ngôn từ nhưng lại thể hiện rõ từ sâu thẳm đáy lòng sự biết ơn, trân trọng cô giáo, câu chuyện đưa người đọc đến với văn hóa ứng xử thấm đẫm tình người, đạo lý tôn sư trọng đạo ngàn đời, một tinh hoa tốt đẹp, nhân văn của dân tộc.
Đại úy Trịnh Ngọc Quý cho hay: “Dù cô chỉ dạy tôi hơn một năm, nhưng hình ảnh cô luôn in sâu trong tâm trí tôi. Cô không chỉ cho tôi kiến thức mà còn cả kỹ năng sống, bài học về đạo đức, tình người, về sự nỗ lực vượt lên hoàn cảnh. Nhân cách, đạo đức của cô sẽ theo tôi suốt cuộc đời”. Câu chuyện anh kể đã đánh thức trái tim con người về lẽ sống, về sự biết ơn, lối ứng xử cao đẹp với thầy cô, những người đã trao truyền tri thức cho những thế hệ học trò, thật đáng trân quý.
Trong thâm tâm, anh luôn nghĩ và mong muốn rằng dù ở thời đại nào, văn hóa, đời sống xã hội có ảnh hưởng tiêu cực đến nhà trường, thầy trò thế nào thì tình thầy trò vẫn luôn là điều thiêng liêng, cao đẹp nhất. Thầy cô là những người có đóng góp nhiều nhất trong việc trồng người và hình thành nhân cách của học trò... Câu chuyện của anh đã khẳng định điều đó...
Từ học trò ngoan đến... đại đội trưởng
Chúng tôi ngồi bên người anh cả của Đại đội 11 đúng lúc đơn vị tập trung cao điểm cho nhiệm vụ đón nhận chiến sĩ mới và bước vào mùa huấn luyện. Quý cho hay: “Năm nay mọi nội dung huấn luyện được cấp trên bám sát, đôn đốc kiểm tra. Đây cũng là lần đầu tiên tôi được cấp trên tin tưởng tiến chức, giữ cương vị đại đội trưởng, nên tôi đã tranh thủ xin ý kiến của thủ trưởng, đồng đội đi trước có kinh nghiệm để mọi công tác chuẩn bị được chu đáo”. Dù mới tiếp xúc, nhưng qua những câu chuyện, thông tin anh chia sẻ cho thấy anh là người rất sâu sát, tận tụy với công việc, nhiệm vụ được giao. Hôm Ban tổ chức cuộc thi viết “Cô giáo của tôi” mời đến nhận giải, biết công việc của mình còn nhiều, anh không thể về tận hưởng niềm vui nên đã nhờ em gái đến nhận giúp.
Khi những tiếng cưa, đục ở ngoài sân lắng lại, chúng tôi cùng Quý ôn lại những năm tháng tuổi thơ, bên thầy cô và bạn bè. Quý lặng mình đi chốc lát rồi bùi ngùi kể: “Ngày ấy gia đình tôi rất nghèo, nuôi tôi học xong đại học là sự chắt chiu cố gắng của mẹ. Nhiều lúc thiếu vở, sách giáo khoa là chuyện thường. Khi tôi lên lớp 10, trường xa nên việc đi học lại khó khăn hơn rất nhiều. Nhưng bù lại, tôi luôn nhận được sự động viên, đùm bọc của các thầy cô trường Yên Định, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, trong đó có cô Nguyễn Thị Lý, giáo viên môn Toán. Cô yêu thương học trò hết mực, nhiều hôm cô còn nhường nắm xôi ăn sáng của mình cho học trò; biết chúng em thiếu vở, bút cô cũng tìm cách giúp đỡ. Trong khi hoàn cảnh của cô cũng vô cùng khó khăn”.
Tưởng như tuổi học trò ngây thơ, bồng bột, thờ ơ với tấm lòng của thầy cô giáo, nhưng không, việc làm tình cảm của cô giáo đã làm rung động tâm hồn cậu học trò nghèo. Quý quyết tâm và tự hứa sẽ chăm chỉ học tập. Và sự quyết tâm, lời hứa của cậu học trò nghèo ấy đã thành hiện thực. 3 năm phổ thông trung học, Quý đều đạt kết quả khá, giỏi và thi đỗ Trường Sĩ quan Lục quân 1 (nay là Trường Đại học Trần Quốc Tuấn) như anh từng mơ ước. Suốt chặng đường học tập, công tác của mình Quý luôn đạt được kết quả cao, nhiều năm anh được cấp trên khen thưởng. Và phần thưởng giải nhất cuộc thi viết “Cô giáo của tôi” là món quà vô cùng ý nghĩa anh dâng tặng hương hồn cô giáo của mình nơi quê nhà.
Trong công tác, Quý luôn tự rèn mình; trong lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, anh vừa nghiêm khắc với chính mình và anh em, vừa chuẩn chỉnh từng mệnh lệnh, nhiệm vụ, được đồng đội quý mến, nể phục. Và sau những giờ trên thao trường, trên bàn họp ấy là sự gần gũi, yêu thương, chia sẻ với mọi người. Có người nói: “Quý là một chỉ huy giỏi và nặng tình”. Tưởng như lời kết ấy khắc nhau, nhưng với ngôi nhà Đại đội 11, Tiểu đoàn 9 thì đúng vậy! Cấp dưới có chuyện vui, chuyện buồn anh đều biết, có gì vướng mắc đều được anh “thủ thỉ” điều hơn lẽ phải và có lúc hai chàng trai cùng nhau rớm nước mắt... Dù còn trẻ, chưa lập gia đình nhưng chàng trai xứ Thanh (Định Liên, Yên Định, Thanh Hóa) với những năm tháng tuổi thơ vất vả, bố mất sớm nay đã trưởng thành, trở thành con người có đạo đức, xứng danh phẩm chất cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ.
“Bao nhiêu tiền một bó rau vậy cô?-Tôi cất tiếng hỏi mà không nghĩ rằng đấy là cô tôi-Năm trăm đồng cháu ạ! Còn mấy bó nữa lấy nốt cho cô nhé. Cô ngẩng đầu nhìn lên rồi khuôn mặt hiện dần sau vành nón lá đã sờn màu xưa cũ để cả tôi và cô cùng đứng lặng người một lúc nhìn nhau, tôi như không tin vào mắt mình và đứng hình câm lặng không biết thốt lời ra sao.
Lũ chúng tôi thật vô tâm, dẫu cho cô mới chỉ nhận chủ nhiệm lớp được hơn hai tháng nhưng chẳng ai trong lớp biết hoàn cảnh thực sự về gia đình của cô. Chồng cô-người thương binh từ chiến trường trở về nhưng không biết trong mình mang theo di chứng da cam. Những ngày mưa nắng thất thường là những can qua và khó nhọc của khói lửa chiến trường lại dằn vặt thể xác người chồng thân yêu, nỗi đau như muốn cấu xé và cắn nát tâm hồn cô khi một trong hai người con cũng bị ảnh hưởng bởi di chứng da cam tàn ác”.
(trích tác phẩm “Cô đã cho tôi bài học cuộc đời” của Đại úy Trịnh Ngọc Quý)
|
Bài và ảnh: VĂN HẠNH