Trước tiên là hành trình của tư duy lý luận về văn hóa. Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, có nhận thức về vai trò của văn hóa, nhưng thành hệ thống lý luận, phải đến khi có Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 2-1943, Đảng ta công bố “Đề cương về văn hóa Việt Nam”, đây là văn kiện đầu tiên đặt nền móng cho đường lối văn hóa của cách mạng Việt Nam. 3 nguyên tắc cơ bản: Dân tộc, khoa học, đại chúng không chỉ phản ánh khát vọng giải phóng dân tộc, mà còn mở ra con đường phát triển văn hóa gắn liền với độc lập, tự chủ. Có thể nói đây là văn kiện lý luận đầu tiên của Đảng ta về văn hóa, nhưng lại chưa có chính quyền trong tay.
Năm 1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Hội nghị lần thứ 5 đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16-7-1998, về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là văn kiện lý luận thứ hai trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta, nhưng là văn kiện đầu tiên khi Đảng ta có chính quyền để thực thi văn kiện này.
Ngày 9-6-2014, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Hội nghị lần thứ 9 đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Đây là văn kiện lý luận thứ ba của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hóa.
Hơn 80 năm, nếu tính từ năm 1943, và 80 năm từ khi Đảng có chính quyền trong tay, các văn kiện ấy là cương lĩnh của Đảng ta về văn hóa, soi đường cho văn hóa Việt Nam, đưa văn hóa thành một mặt trận, một trong những trang sử vàng của dân tộc 80 năm qua.
Từ tư duy lý luận mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói giản dị, cô đọng nhưng sâu sắc tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24-11-1946: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” và năm 1952, Người khẳng định: “Văn hóa văn nghệ là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” mà các văn nghệ sĩ đã hình thành một “binh chủng đặc biệt”, đóng góp vào hành trình lịch sử của dân tộc Việt Nam.
30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ (từ năm 1945 đến 1975), đội ngũ văn nghệ sĩ đã thực sự là chiến sĩ. Họ có mặt tại các chiến trường, vừa là văn nghệ sĩ, vừa là chiến sĩ; vừa cầm bút, vừa cầm súng. Nhiều người đã ngã xuống, trở thành dáng đứng nghệ sĩ thời chống Pháp như: Thâm Tâm, Nam Cao...; thời chống Mỹ như Chu Cẩm Phong, Nguyễn Mỹ, Vũ Đình Văn, Trần Vàng Sao, Dương Thị Xuân Quý, Hoàng Việt, Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến), Nguyễn Thi, v.v.. Nhờ có “binh chủng đặc biệt” ấy mà dân tộc ta có một nền văn hóa đồ sộ với những tác phẩm văn học, nghệ thuật lớn như: Sống như Anh, Người mẹ cầm súng, Tình ca, Cuộc chia ly màu đỏ, Dáng đứng Việt Nam... phản ánh về cuộc chiến tranh cách mạng 30 năm ròng rã; phản ánh tư tưởng, ý chí, tâm hồn, cốt cách và khí phách của con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Chặng đường 50 năm từ năm 1975 đến nay, lại là chặng đường văn hóa chuyển đổi sâu sắc về nhiều phương diện. Năm 1975, đất nước thống nhất nhưng phải đối mặt với khó khăn của thời hậu chiến. Tư duy về văn hóa của nhân loại có sự thay đổi, Liên hợp quốc phát động thập kỷ phát triển văn hóa. Năm 1986, Đảng ta bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới. Một số văn nghệ sĩ đã có những tác phẩm thể hiện khát vọng đổi mới trong Liên hoan nghệ thuật sân khấu năm 1985, tiêu biểu là tác giả Lưu Quang Vũ với những tác phẩm sân khấu gây được tiếng vang lớn.
Hành trình của văn hóa lại tiếp tục trên con đường đổi mới của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta từng bước xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển. Hệ thống pháp luật và chính sách về văn hóa được hoàn thiện; di sản văn hóa được bảo tồn và phát huy; các thiết chế văn hóa như nhà văn hóa, thư viện, bảo tàng đến các hoạt động lễ hội được khôi phục, mở rộng. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể cùng di sản ký ức tư liệu của Việt Nam đã được UNESCO vinh danh là Di sản thế giới như: Vịnh Hạ Long và quần đảo Cát Bà, Phong Nha-Kẻ Bàng, Cố đô Huế, khu di tích Mỹ Sơn, khu phố cổ Hội An, Hoàng thành Thăng Long; di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại như Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ Bắc Ninh, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ; di sản ký ức tư liệu thế giới và khu vực như Mộc bản triều Nguyễn, Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám (Hà Nội), Châu bản triều Nguyễn...
Cùng các di sản văn hóa, Việt Nam cũng đã có nhiều danh nhân được UNESCO vinh danh như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh... Tên tuổi của các di sản văn hóa và danh nhân của Việt Nam đã vang lên tại các quốc gia và vùng lãnh thổ. Những di sản văn hóa, những danh nhân văn hóa được UNESCO vinh danh, những sản phẩm văn hóa kết hợp khéo léo giữa truyền thống và đương đại sẽ là “đại sứ” để bạn bè trên thế giới nhận diện và trân trọng đất nước, con người Việt Nam. Thế là hành trình của văn hóa Việt Nam qua 80 năm đã vượt ra khỏi ranh giới địa lý của đất nước. Văn hóa Việt Nam giàu bản sắc đã hiện diện trong ngôi nhà chung của nhân loại.
Nhìn lại 80 năm qua, nền văn hóa độc lập, tự chủ của Việt Nam không ngừng lớn mạnh. Nền văn hóa ấy vừa là sản phẩm của công cuộc đấu tranh giải phóng và xây dựng đất nước, vừa là động lực tinh thần giúp dân tộc vững vàng trước mọi biến động của lịch sử. Nhìn về tương lai, khát vọng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gắn với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đang trở thành ý chí chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đó không chỉ là mong muốn bảo tồn những giá trị truyền thống mà còn là khát vọng kiến tạo những giá trị mới, đưa văn hóa trở thành trụ cột vững chắc của sự phát triển bền vững. Cùng với những công việc ấy, xây dựng con người Việt Nam trong thời đại mới là nhiệm vụ trung tâm của khát vọng phát triển. Con người Việt Nam mới phải hội tụ trí tuệ, bản lĩnh, lòng nhân ái, kỷ luật, tinh thần sáng tạo và niềm tự hào dân tộc; sẵn sàng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại nhưng không đánh mất gốc rễ văn hóa, không làm nhạt nhòa bản sắc văn hóa dân tộc. Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị gia đình và hệ giá trị cá nhân cần được thấm sâu vào đời sống, trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động.
Trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, khát vọng xây dựng và phát triển văn hóa cũng đồng nghĩa với việc đưa văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế và xã hội trong chiến lược phát triển. Hai vấn đề lớn của nước ta: Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cùng các quốc gia trên thế giới bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0) tạo ra thời cơ nhưng không ít thách thức cho sự phát triển nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Mọi chính sách kinh tế, xã hội đều phải tính đến yếu tố văn hóa; mọi dự án đầu tư, hạ tầng, công nghệ cần được thiết kế hài hòa với môi trường và bản sắc địa phương. Chỉ khi văn hóa trở thành động lực, gắn kết các lĩnh vực, chúng ta mới có thể xây dựng một xã hội hài hòa, tiến bộ và bền vững.
Như thế, trong hành trình bước vào kỷ nguyên mới, văn hóa của hành trình 80 năm lịch sử từ mùa thu năm 1945 là chỗ dựa tinh thần đồng hành với thế hệ hôm nay bước vào tương lai.
GS, TS NGUYỄN CHÍ BỀN, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam