Đó là hồi ức của chiến sĩ Điện Biên Phạm Đức Cư, trú tại tổ 7, phường Nam Thanh, TP Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, nguyên Trợ lý tham mưu, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn Pháo cao xạ 367, Đại đoàn 351 về cuộc hành quân ra trận lần đầu tiên và đến lòng chảo Mường Thanh.

Năm 1953, chàng thanh niên Phạm Đức Cư gia nhập Trung đoàn Pháo cao xạ 367, đơn vị pháo cao xạ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 1-4-1953 tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên (tiền thân của Sư đoàn Phòng không 367, Quân chủng Phòng không-Không quân ngày nay). Qua hơn 6 tháng huấn luyện kỹ thuật điều khiển pháo ở Trung Quốc, cuối năm 1953, cấp trên cử hai Tiểu đoàn 383 và 394 tham gia Chiến dịch Trần Đình (mật danh của Chiến dịch Điện Biên Phủ).

- Bác còn nhớ hoàn cảnh kéo pháo vào trận địa diễn ra như thế nào không ạ?-Tôi hỏi chiến sĩ Điện Biên Phạm Đức Cư.

- Đó là những ngày tháng gian khổ, ác liệt nhưng rất tự hào đối với chúng tôi-chiến sĩ Điện Biên vừa bước qua tuổi 94 chia sẻ.

Rồi ông chậm rãi kể: “Cuối tháng 1-1954, các đơn vị công binh ngày đêm thi công mở đường cho các đơn vị pháo binh, bộ binh vào lòng chảo Mường Thanh, tiếp cận các cứ điểm của quân địch. Tôi và đồng đội được lệnh kéo pháo bằng sức người vào gần Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Theo lệnh của cấp trên, Tiểu đoàn 383 chiếm lĩnh sườn núi phía Đông Nam lòng chảo, Tiểu đoàn 394 chiếm lĩnh sườn núi phía Tây Nam lòng chảo, 2 đơn vị với 41 trận địa pháo, bố trí thế trận hình cánh cung ôm lấy lòng chảo, hình thành lưới lửa phòng không khống chế vùng trời Điện Biên, sẵn sàng chiến đấu với không quân của địch, bảo vệ bộ binh chiến đấu”.

leftcenterrightdel

 Chiến sĩ Điện Biên Phạm Đức Cư kể chuyện kéo pháo vào trận địa cho thế hệ trẻ.

Mặc dù 70 năm đã trôi qua nhưng chiến sĩ Điện Biên Phạm Đức Cư vẫn nhớ như in những ngày kéo pháo vào trận địa với biết bao khó khăn, gian khổ, hy sinh, trong đó có tấm gương anh dũng hy sinh khi cứu pháo của anh Tô Vĩnh Diện. “Chúng tôi được phát mỗi người một đôi giày vải trước khi lên đường.

Để có thể kéo được khẩu pháo nặng 2,4 tấn vào trận địa, cần 80-100 cán bộ, chiến sĩ tham gia. Đường ra trận chủ yếu mới mở chật hẹp, địa hình dốc, vực thẳm, trời mưa trơn, lầy lội, địch bắn phá không ngừng, khiến việc kéo pháo vô cùng khó khăn. Không chỉ vật lộn với núi cao, vực sâu, chúng tôi còn phải đương đầu với thời tiết khắc nghiệt của Điện Biên. Có những hôm mưa tầm tã, đường trơn trượt, chỉ cần sơ sẩy là pháo có thể rơi xuống vực thẳm. Đôi giày vải được phát sau vài hôm lội bùn, ghì dây kéo pháo đã nát bươm. Anh em phải đi chân trần, giẫm lên gốc cây, đá nhọn, tứa máu. 

Khí thế giết giặc lập công đang sục sôi trong mỗi cán bộ, chiến sĩ, thì đơn vị nhận được lệnh kéo pháo ra. Chúng tôi ai cũng bàng hoàng với câu hỏi “Tại sao không đánh, hay có vấn đề gì?”. Sau khi được chỉ huy đơn vị phổ biến rằng, tinh thần chiến dịch không thay đổi, nhưng phương châm thay đổi, vì địch có động thái mới. Bộ chỉ huy chiến dịch đã chuyển phương châm từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”-ông Phạm Đức Cư thuật lại.

Chấp hành mệnh lệnh của trên, tối 26-1-1954, Tiểu đoàn 394 thực hiện nhiệm vụ kéo pháo về địa điểm tập kết. Theo ông Cư, quá trình kéo pháo vào đã gian nan, vất vả, khi kéo pháo ra khó khăn, phức tạp bội phần. Tuy nhiên với sự đồng lòng, quyết tâm của cả đơn vị, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tiểu đoàn trưởng Trịnh Duy Hậu và Chính trị viên Phạm Đăng Ty (sau này là Thiếu tướng, Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Phòng không-Không quân, Bí thư Đảng ủy Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam), đơn vị tiến hành kéo pháo ra. Mọi việc diễn ra khá suôn sẻ thì khẩu pháo do anh Tô Vĩnh Diện phụ trách gặp bất trắc.

Giọng ông Cư trùng xuống: “Tôi nghe anh em kể lại rằng, khẩu pháo do anh Tô Vĩnh Diện phụ trách đang xuống dốc thì một chùm pháo của địch bất ngờ bắn tới khiến nhiều đồng chí bị thương. Anh Tô Vĩnh Diện vội lao lên bám chặt lấy càng pháo to hơn cái bắp cày, nặng hàng trăm ki-lô-gam thay cho các khẩu đội bị thương. Pháo di chuyển đến lưng chừng dốc, một chùm đại bác của giặc lại bắn tới, khiến một trong hai dây tời kéo pháo bị đứt, khẩu pháo nặng 2,4 tấn quay ngang, rồi quay dọc, có nguy cơ lao xuống vực sâu. “Bám chắc, quyết tâm bảo vệ pháo”-Khẩu đội trưởng Tô Vĩnh Diện hô. Nhưng khẩu pháo vẫn lao xuống ầm ầm. Anh lại hô to: “Chết không rời pháo!”.

Với trách nhiệm của Khẩu đội trưởng, anh Tô Vĩnh Diện cùng các chiến sĩ vật lộn với khẩu pháo, bàn chân anh đạp mạnh vào vách núi, hai tay ghì chặt, cố hết sức đẩy càng pháo vào taluy dương để pháo không bị lăn xuống vực. Tuy nhiên, khẩu pháo vẫn lao xuống dốc. Thấy có gốc cây gần đó, anh đưa một chân vào đạp để lấy đà đưa khẩu pháo vào taluy dương, nhưng khẩu pháo quá nặng, quay quật vào người khiến anh gục xuống...”. Lúc này, các đồng đội cũng kịp chạy đến chèn bánh, kéo pháo lùi lại đưa Tô Vĩnh Diện ra ngoài. Trong những giây phút cuối cùng trước lúc hy sinh, Khẩu đội trưởng Tô Vĩnh Diện vẫn cố hỏi đồng đội: “Pháo có sao không?”.

- Trong đêm vắng lặng của mùa đông năm ấy, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 394 cùng mặc niệm trước mộ người đồng đội anh hùng, không có một nén hương, chỉ có gió rừng ào ạt và hạt mưa, hạt sương đêm như giọt lệ, nhỏ xuống nấm mồ anh-ông Phạm Đức Cư ngậm ngùi.

Sự hy sinh anh dũng của anh Tô Vĩnh Diện càng thổi bùng quyết tâm đánh thắng quân thù của bộ đội pháo cao xạ. Chiều tối 13-3-1954, thời điểm bắt đầu chiến dịch, pháo binh, bộ binh của Quân đội ta đồng loạt tiến công đánh chiếm các điểm cao quan trọng tại phân khu 1 ở Him Lam, chỉ trong vòng 7 giờ đồng hồ, quân ta đã làm chủ thế trận. Đến 5 giờ ngày 14-3-1954, các đơn vị pháo cao xạ được lệnh sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ các đơn vị bộ binh thực hiện tiến công đồi Độc Lập.

Sáng 15-3-1954, dưới sự yểm trợ của pháo binh, quân ta đánh chiếm, làm chủ đồi Độc Lập. 12 giờ 45 phút cùng ngày, viên Trung tá Jean Charles Clement Piroth, Chỉ huy trưởng pháo binh của Binh đoàn tác chiến Tây Bắc, người từng tuyên bố hùng hồn: “Tôi có nhiều đại bác hơn số tôi cần” đã phải tự sát sau khi nhận ra tình cảnh bế tắc không thể chống lại được lực lượng pháo binh của đối phương tại trận Điện Biên Phủ.

Ngày 16-3-1954, quân địch ở khu đồi Bản Kéo lũ lượt cầm cờ trắng ra hàng. Như vậy, Chiến dịch Điện Biên Phủ mới diễn ra được 3 ngày, địch đã mất 3 vị trí tiền tiêu quan trọng ở phân khu phía Bắc, chúng cay cú, điên cuồng nã pháo, huy động nhiều máy bay bắn phá vào các trận địa pháo của ta. Thế nhưng ông Phạm Đức Cư cùng đồng đội vẫn kiên cường trên mâm pháo. Kết quả qua 3 đợt tiến công trong 56 ngày đêm, các đơn vị pháo cao xạ đã ngăn chặn hiệu quả không lực của quân Pháp, cắt đứt đường tiếp tế hàng không của địch. Năm 1954, bộ đội pháo cao xạ đã bắn rơi 52 chiếc máy bay các loại trên bầu trời Điện Biên Phủ, góp phần quan trọng vào chiến thắng của quân và dân ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Sau Chiến dịch Điện Biên Phủ, ông Cư tiếp tục công tác ở đơn vị pháo cao xạ. Năm 1962, ông được cấp trên cử lên Điện Biên làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế và sống cùng gia đình tại mảnh đất lịch sử này cho đến hôm nay. May mắn hơn đồng đội của mình, ông Cư được chứng kiến Điện Biên Phủ từ những ngày còn ngổn ngang hố bom, bãi mìn, với rất nhiều khó khăn, thiếu thốn cho đến hôm nay, cuộc sống của đồng bào có nhiều đổi thay, no ấm. Bản thân ông Cư, với phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, tinh thần của người chiến sĩ Điện Biên, dù tuổi đã cao nhưng vẫn tích cực tham gia các hoạt động xã hội, không ngừng “truyền lửa Điện Biên” cho thế hệ trẻ.

Bài và ảnh: MAI PHƯƠNG