Chị Nguyễn Thị Lũy tiếp chúng tôi trong gian nhà cấp 4 đơn sơ, có phần tuềnh toàng ở thôn Lãnh Thượng 1, xã Quế Sơn, nhưng trên tường treo san sát các bằng Tổ quốc ghi công, danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng, danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân... vinh danh những người thân của chị. Thấy chúng tôi có vẻ băn khoăn về nơi thờ tự những người có công với cách mạng, chị Lũy nghẹn ngào: “Vợ chồng tôi đều là công chức nghỉ hưu. Giờ tuổi già, sức yếu nên cuộc sống chỉ trông chờ vào đồng lương hưu. Vì thế, đến nơi ở của vợ chồng, con cái cũng chưa lo được thì làm sao có thể lo nổi nơi thờ cúng đàng hoàng cho gia tộc”.
Chị Nguyễn Thị Lũy sinh năm 1961, là con của một gia đình có 3 liệt sĩ. Bố là liệt sĩ Nguyễn Bờ, mẹ là liệt sĩ Võ Thị Luyện và chị gái cũng là liệt sĩ. Bà nội của chị là Bà mẹ Việt Nam anh hùng có con trai duy nhất hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Mẹ của chị là liệt sĩ, đồng thời cũng là Bà mẹ Việt Nam anh hùng vì có chồng và con là liệt sĩ.
Chị Lũy kể: "Ba mẹ tôi sinh được 3 người con (2 gái, 1 trai). Cả gia đình đều đi theo cách mạng. Chị gái tôi là du kích, hy sinh tháng 4-1969. Sau đó một tháng, ba tôi hy sinh. Tháng 12-1970, mẹ tôi cũng hy sinh. Từ đó, tôi và em trai phải sống nhờ bà con lối xóm. Tháng 2-1972, tôi và em trai được tổ chức đưa ra miền Bắc học đến năm 1975 thì trở lại quê nhà. Do ba mẹ và chị đã hy sinh, nhà cửa của gia đình không còn, chị em tôi phải sống trong ký túc xá của trường nội trú dành cho con liệt sĩ tại Tam Kỳ (Quảng Nam). Năm 1982, em trai tôi bị bệnh, do nhà nghèo, thuốc thang không kịp thời nên em tôi cũng đi theo ba mẹ. Tôi là người còn lại cuối cùng của gia tộc”...
Khi chúng tôi hỏi về tình huống hy sinh của bố mẹ và chị gái thì chị Lũy nói rằng: “Thực ra, tôi chỉ biết chuyện hy sinh của ba, mẹ và chị gái mình qua lời kể của cô bác lối xóm và những người cùng công tác với ba mẹ tôi. Ngày ấy tôi còn nhỏ, nghe mọi người nói chị gái rồi ba, mẹ hy sinh, tôi chỉ biết ôm em trai mà khóc. Hỏi thêm điều gì chị Lũy cũng lắc đầu: “Tôi không rõ. Bây giờ, tôi chỉ mong sao có sức khỏe để vợ chồng làm lụng, chắt chiu rồi nhờ mọi người giúp đỡ để có thể xây nơi thờ tự tươm tất cho ông bà, ba mẹ và chị gái tôi thôi”...
    |
 |
Không gian thờ tự các liệt sĩ và Bà mẹ Việt Nam anh hùng của gia đình chị Nguyễn Thị Lũy.
|
Bên ngoài, gió thổi xào xạc trên tán lá, nắng chói chang chiếu vào nhà như thiêu, như đốt. Lời chị Lũy làm chúng tôi rưng rưng xúc động. Để biết thêm thông tin về liệt sĩ Nguyễn Bờ (bố chị Lũy), chúng tôi tìm gặp ông Trần Sỹ Kỳ, nguyên cán bộ Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng (trước đây), người cùng quê và cùng chuyến đi ra Bắc với chị Lũy năm 1972. Ông Sỹ cho biết: “Ông Bờ còn gọi là ông Bổi, sinh năm 1922, tham gia cách mạng từ năm 1940. Năm 1954, ông được tổ chức phân công ở lại bám trụ để xây dựng phong trào cách mạng tại quê hương. Năm 1965, ông được cử làm Bí thư chi bộ đầu tiên của xã Sơn Trung (sau đổi thành xã Quế Hiệp, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam). Ngày ấy ở quê cực lắm, Mỹ-ngụy vây ráp, càn quét, đàn áp dữ dội, nhiều xã trắng cơ sở cách mạng. Trước tình hình đó, ông Bờ đã mưu trí, dũng cảm bám đất, bám dân xây dựng cơ sở cách mạng. Ông đi khắp các thôn xã, vận động nhân dân đóng góp lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm để giúp bộ đội, du kích đứng chân trên núi Hòn Tàu...".
Khi chúng tôi hỏi về sự hy sinh của vợ chồng ông Nguyễn Bờ và con gái, ông Trần Sỹ Kỳ giới thiệu chúng tôi đến gặp ông Nguyễn Xuân Hồng, người cùng xã với ông Bờ, hiện sống cùng gia đình ở quê và còn minh mẫn. Ngày ông Bờ là Bí thư chi bộ, ông Hồng là Chính trị viên xã đội. Vợ ông Hồng-bà Võ Thị Phán là con nuôi của ông Nguyễn Bờ.
Nói về quá trình công tác và sự hy sinh của ông Bờ, ông Hồng chậm rãi: “Ông Bờ mưu trí, dũng cảm lắm. Thành tích của ông ấy thì nhiều, nhưng tôi chỉ điểm qua một số chiến công thế này. Tháng 12-1964, huyện Quế Sơn tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ VIII, ông Nguyễn Bờ được bầu là Huyện ủy viên và là Bí thư chi bộ, Đội trưởng Đội công tác xã Sơn Trung. Ngay sau đại hội, ông Bờ đã tổ chức phát động quần chúng kết hợp với LLVT huyện tiến đánh một đại đội nghĩa quân do tên Nguyễn Súy chỉ huy, tiêu diệt tại chỗ 18 tên, bắt sống 35 tên, thu toàn bộ vũ khí, đạn dược. Năm 1965, ông Bờ vận động nhân dân trong xã nổi dậy phá ấp chiến lược, 5/5 thôn với hơn 5.000 nhân khẩu được giải phóng. Năm 1967, ông Nguyễn Bờ cùng đồng đội chỉ huy đội du kích xã kết hợp với các đơn vị bộ đội tiến hành một số trận đánh, bắn cháy 5 xe thiết giáp M113, bắn rơi nhiều máy bay trực thăng, tiêu diệt và làm bị thương hàng trăm tên địch, thu nhiều vũ khí, đạn dược của chúng.
    |
 |
Chị Nguyễn Thị Lũy - con gái liệt sĩ Nguyễn Bờ trước ngôi nhà của mình.
|
Sau Tết Mậu Thân 1968, Mỹ-ngụy tăng cường củng cố các chốt, điểm đứng chân. Chúng thường dùng máy bay trực thăng đổ quân bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào nghi có du kích. Trước tình hình đó, ông Bờ cùng lực lượng du kích quyết tâm bám trụ và đánh địch khi chúng càn vào địa bàn xã. Tháng 5-1968, ông Bờ đã chỉ huy đội du kích dùng mìn tự tạo đánh cháy 3 xe tăng, bắn rơi 2 máy bay UH-1A, diệt 8 tên Mỹ.
Đến năm 1969, trước sự càn quét đánh phá rất dã man của Mỹ-ngụy, mọi sinh hoạt, sản xuất của nhân dân phải chuyển vào ban đêm, cuộc sống vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, chi bộ xã có chủ trương vận động nhân dân không sợ địch, thực hiện hoạt động sản xuất hợp pháp, công khai. Ông Bờ là người đi đầu làm gương. Vào một ngày tháng 5-1969, ông Bờ cùng bà con ra đồng sản xuất, gặp máy bay địch bắn phá, ông quyết tâm bắn trả để bà con tìm nơi trú ẩn và ông đã anh dũng hy sinh trong trận đó.
Con gái ông Bờ là cô Nguyễn Thị Nhỏ, du kích xã, hy sinh khi cùng đội du kích đánh trận Mương Đôi. Vợ ông Bờ là bà Võ Thị Luyện, sinh năm 1931, là cơ sở cách mạng và cũng là “trợ thủ” đắc lực của ông Bờ. Bà có nhiệm vụ thu mua và tiếp tế lương thực, thực phẩm cho du kích, nắm tình hình địch cung cấp cho chồng và cho tổ chức cách mạng tại địa phương, đồng thời nuôi giấu cán bộ nằm vùng. Bà Luyện là cán bộ phụ nữ xã. Trong một lần tổ chức cho chị em phụ nữ tiến hành đấu tranh trực diện với Mỹ-ngụy, bà bị chúng bắn chết tại chỗ.
Ông Hồng nghẹn ngào: “Gia đình ông Bờ giờ còn duy nhất cô con gái đã lấy chồng, đó là chị Nguyễn Thị Lũy. Nhà nghèo, nơi ở cũng tạm bợ, không có nơi thờ tự ông bà, bố mẹ và chị đàng hoàng. Vợ chồng tôi đã hiến 300m2 đất để xây dựng nơi thờ phụng cho ông bà, bố mẹ và chị gái của chị ấy. Tuy có đất nhưng lại chưa có tiền xây dựng. Ở cái xã này, hầu như gia đình nào cũng là gia đình liệt sĩ, các cấp chính quyền dù đã rất quan tâm nhưng cũng không thể lo xuể, có lẽ phải cần đến sự giúp đỡ của các nhà hảo tâm và các doanh nghiệp”.
Câu chuyện của ông Nguyễn Xuân Hồng với chúng tôi khép lại khi mặt trời đã đứng bóng. Dù còn ngổn ngang những trăn trở trước mong muốn của ông Hồng, chị Lũy nhưng lòng thấy vui khi biết, những chiến công của ông Nguyễn Bờ đã được trang trọng ghi vào trang sử vẻ vang của địa phương. Tháng 10-2014, ông Nguyễn Bờ được Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân-sự ghi nhận xứng đáng cho những đóng góp, hy sinh lớn lao của ông và gia đình...
Đại tá, PGS, TS ĐỖ NGỌC THỨ