Làng tôi từ thuở xa xưa cho đến bây giờ đều là nơi đáng sống. Nơi ấy bình yên, đầy ắp tình yêu thương. Cứ ra khỏi ngõ là đụng tới những di tích lịch sử. Đó là đền Quốc tế, các điện Bắc, Nam, Đông, Tây, cây thị gần nghìn năm tuổi, cây đèn trăm ngọn trên chùa bà Đàm Nham... Tất cả đều được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia với nhiều sắc phong vẫn được giữ gìn đến hôm nay. Quê tôi non nước hữu tình có núi có sông, có đầm với nhiều món ẩm thực độc đáo. Chả thế mà khi xưa ở cái trấn Hưng Hóa này nổi tiếng với câu: “Đinh tổng Hiền, điền tổng Tứ, lý sự tổng Văn, hay ăn tổng Dị”. Tổng Dị chính là Dị Nậu quê tôi, nay thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.

Thời dịch Covid-19 hoành hành, nhiều cặp vợ chồng làm ăn, lập nghiệp ở thành phố nay đưa nhau về quê, xây nhà, lập nghiệp làm ăn khá giả. Thú thực tôi cũng muốn về quê ở nhưng tôi sợ! Đó là món nợ tôi không thể trả được. Tôi sợ gặp những người trong một gia đình, có nếp nhà xinh xắn ngay đầu làng. Khi gặp họ tôi cười nói, nhưng trong lòng héo hon, nhớ nhung không diễn tả nổi... Ngôi nhà đó là nhà của cụ Tạ Quang Cương. Ngôi nhà ấy không xa lạ gì với tôi. Bởi từ khi anh cả tôi cưới người con gái duy nhất của cụ Cương thì tôi có thêm một bạn mới. Đó là Tạ Quang Đăng-con út của cụ. Khi anh chị có em bé thì tôi và Đăng được gọi là chú con và cậu con. Tôi thường gọi Đăng là “cậu con”, còn Đăng cũng gọi tôi là “cậu Hoàng”. Tôi và Đăng như tình anh em. Tình thông gia giữa nhà tôi và nhà Đăng thật hiếm có...

Tháng 8-1964, Mỹ dùng không quân đánh phá miền Bắc. Tôi nhập ngũ vào những ngày tháng ấy thuộc Quân khu Tây Bắc. Tôi là lính pháo binh “chân đồng vai sắt” làm nhiệm vụ hỗ trợ lực lượng chiến đấu ở chiến trường Lào. Khi Nậm Bạc được giải phóng, chúng tôi được điều động về nước, hành quân vào Nam tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Sau khi tham gia đợt 2 Mậu Thân 1968 giải phóng Khâm Đức và bắn phá chi khu Đăk Pét, tiểu đoàn chúng tôi về tập kết trong khu rừng nguyên sinh thuộc Hiệp Đức-Quảng Nam. Thật bất ngờ vào một buổi chiều ngày 5-9-1968, tôi đang nằm trên võng, chợt nghe tiếng gọi: "Cậu Hoàng".

Tôi tung bọc võng ngồi dậy. Nhận ra Đăng, chúng tôi ôm lấy nhau, mừng mừng tủi tủi và bắt đầu những câu hỏi đáp không đầu không cuối. Hóa ra Đăng trở thành chiến sĩ Quân Giải phóng trước tôi hai năm. Tôi và Đăng đóng quân rất gần nhau. Đăng làm thống kê kho của trung đoàn hậu cần quân khu ở phía Tây dốc Cúm. Còn tôi là Trợ lý tác chiến Tiểu đoàn pháo 17 đóng quân phía Đông dốc Cúm. Gặp nhau được ít phút, Đăng phải đi cho kịp đoàn. Tôi khoác áo mưa tiễn Đăng. Lúc này, chúng tôi mới hỏi nhau về quê nhà, về những người thân trong gia đình. Thì ra Đăng cũng như tôi hai năm qua không nhận được thư nhà. Chúng tôi chia tay nhau hẹn ngày gặp lại. Đăng cùng anh em trong đơn vị cũng ra đầu mối B46 cõng hàng về hậu cứ như bọn tôi. Tạm biệt Đăng trong tôi đong đầy cảm xúc. Giữa rừng xanh núi đỏ, mưa gió mịt mù chỉ nghe tiếng nói mà nhận ra nhau.

Đông dốc Cúm và Tây dốc Cúm gọi như thế là gần. Nhưng thực ra vượt qua được dốc Cúm cũng mất cả ngày đường leo đèo vượt dốc. Do vậy, tôi và Đăng chưa một lần gặp nhau ở nơi đóng quân. Công việc của người lính cuốn hút theo mệnh lệnh cấp trên; sẵn sàng có lệnh là đi. Để chuẩn bị cho những trận đánh lớn, tiểu đoàn chúng tôi được lệnh tham gia gùi hàng từ đầu mối B46 về kho nơi Đăng ở. Cung đường này được giao cho Tiểu đoàn nữ thanh niên xung phong 232 đảm nhận. Song, nhu cầu đạn súng cung cấp cho các chiến trường tăng cao, địch lại bắn phá rất ác liệt đầu mối B46. Vì vậy, chúng tôi phải bảo đảm tuyến đầu lấy hàng ở B46. Chúng tôi dùng sức trẻ nhanh chóng tiếp cận, nhanh tay, nhanh mắt người thì hòm đạn, người bó súng nhanh chóng rời khỏi nơi địch đánh phá; giao hàng cho chị em Tiểu đoàn 232. Qua chị em Tiểu đoàn 232, tôi và Đăng vẫn liên hệ được với nhau.

Chiến trường Quảng Ngãi cần đạn hỏa lực, đơn vị chúng tôi lại được chuyển vào trong. Đoạn gùi hàng của chúng tôi đảm nhiệm là đoạn qua ngầm sông Tranh theo đường mòn về phía Nam. Nghĩa là tôi đang ở đoạn gùi cách kho hàng của Đăng ba trạm. Sáng 24-5-1969, tôi đang gùi hòm đạn B41 đi vào còn cách ngầm sông Tranh chừng một giờ đi bộ. Đột nhiên bầu trời vang rền tiếng máy bay cánh quạt bay thấp. Nhìn lên đã thấy chiếc C-123 hai cánh đang phun ra những làn nước chết chóc. Tôi vội vàng tung tấm ni lông che lên người và hòm đạn, thì cũng là lúc những bụi nước từ máy bay rơi ràn rạt lên tấm ni lông. Tôi hiểu Mỹ đang rải chất độc hóa học hủy diệt khu rừng này... Không còn tiếng máy bay, không còn bụi nước rơi trên tấm ni lông. Tôi thận trọng ra khỏi ni lông. Bỗng có tiếng gọi: "Cậu Hoàng".

Quá bất ngờ, tôi làm rơi tấm ni lông dính đầy chất hóa học khi nhận ra Đăng trước mặt, trên vai đang cõng thùng mắm. Tôi cúi xuống định nhặt tấm ni lông thì Đăng vội bảo: "Thôi bỏ đi anh, độc lắm đấy".

Nói rồi Đăng mở bao gùi đưa cho tôi tấm ni lông mới mua. "Anh dùng thứ này tiện hơn. Em mới mua dưới cửa khẩu". Tôi đứng sững người nhìn Đăng. Lần đầu tiên Đăng gọi tôi là anh xưng em. Thực sự Đăng ít tuổi hơn tôi, gọi anh xưng em cũng đúng. Nhưng bao lâu rồi không gọi, giờ Đăng gọi thế thực sự trong tôi cảm thấy rưng rưng.

Đã đến lúc phải chia tay, Đăng bảo: "Ước gì cả hai anh em mình cùng về Dị Nậu sau chiến tranh".

- Nhất định là thế, mình cùng về quê mà. Tôi tiếp lời Đăng.

- Thú thật, nhiều lúc em rất nhớ nhà, nhớ quê, nhớ Lan. Bọn em định cuối năm làm đám cưới thì em nhập ngũ đi B luôn...

Đăng còn bảo: "Cố gắng để về Dị Nậu anh nhé. Anh có về trước em thì nói với Lan hộ em là em rất yêu cô ấy. Đợi em về sẽ cưới...".

Tháng 9-1969, tôi được điều động về chiến đấu ở Mặt trận Chu Lai. Tôi nếm trải đủ sự ác liệt của chiến tranh. Trong những ngày quần nhau với giặc ở căn cứ không quân Chu Lai, tôi luôn nhớ tới Đăng. Khi thu được những vật dụng dùng cá nhân tôi cũng xí phần cho Đăng. Tôi để dành cho Đăng con dao con nhiều lưỡi, chiếc bấm móng tay xinh xinh, chiếc mở đồ hộp có hình mỏ neo nhọn sắc, vải dù... Định khi gặp Đăng sẽ trao tặng. Nhưng, hôm tôi được lệnh tách đoàn, trở ra khu đầu mối B46, định rẽ vào thăm Đăng trong khu vực tổng kho thì hay tin Đăng đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ. Thi thể chưa tìm thấy... Thật không ngờ, buổi sáng gặp Đăng ở phía Bắc ngầm sông Tranh hôm trước ấy lại là lần cuối tôi gặp Đăng.

Nghe tin Đăng mất, tôi không thể đi được nữa đành xin nghỉ lại qua đêm nơi đây. Đêm nằm trên võng, lắng nghe hơi thở của rừng càng nhớ Đăng. Hình ảnh, lời dặn của cậu ấy vẫn rõ mồn một trong tâm trí tôi: “Anh nhớ đừng để sốt rét. Cố gắng để về Dị Nậu sau chiến tranh. Em đã gửi mấy lá thư về nhà, gửi người tin cậy ra Bắc báo tin anh em mình gặp nhau. Em đi nghe anh...”.

leftcenterrightdel

Cổng đền Quốc tế-một trong những di tích lịch sử ở Dị Nậu được xếp hạng cấp quốc gia. Ảnh: NGUYỄN KIM 

Từ anh lính Quân Giải phóng tôi lại được điều về làm lính Trường Sơn. Một lần nữa lại trở về đất Lào, rồi ở Lào miết đến hết chiến tranh. Hiệp định Paris được ký kết. Tôi về thăm quê sau 10 năm xa cách. Cảnh vật làng quê Dị Nậu hầu như không thay đổi. Cây đa, bến nước, sân đình vẫn thế. Bến đò vào làng có thêm mấy hố bom toang hoác bởi giặc Mỹ tàn phá. Tôi về nhà tối hôm trước, ngay hôm sau cụ Cương đã chống gậy tới nhà. Cụ đã già, chân chậm, tai điếc nặng. Câu đầu tiên cụ hỏi tôi: "Chú về sao không thấy Đăng về?".


Tôi không biết trả lời cụ sao cho phải. Đành rót nước mời cụ...

Tôi trả phép đúng hẹn và trở lại đơn vị chiến đấu cho đến ngày toàn thắng. Đến sáng 2-9-1975 tôi trở về quê nhà nghỉ phép. Trong khi mọi người quây quần bên chiếc đài bán dẫn nghe tường thuật lễ duyệt binh ở Quảng trường Ba Đình thì cụ Cương chống gậy tới nhà, hỏi: "Chú về sao không thấy Đăng về?".

Vẫn câu hỏi như năm trước. Mặc dù cụ đã biết, chính quyền xã đã gửi giấy báo tử, làm lễ truy điệu cho Đăng. Nhưng có lẽ những năm trước gia đình nhận được thư Đăng báo tin chúng tôi đã gặp nhau ở chiến trường và hẹn ngày chiến thắng sẽ cùng về thăm nhà nên mọi người vẫn chờ đến ngày tôi và Đăng trở về... Tôi chứng kiến những giọt nước mắt của cụ Cương, của bác Khánh (anh cả của Đăng) đã rơi. Nước mắt của những người đàn ông-nghẹn đắng tận đáy lòng. Chị dâu tôi khi biết tin Đăng hy sinh cũng khóc đến cạn nước mắt. Song tuyệt nhiên chưa thấy chị khóc trước tôi khi nói về Đăng. Hình như mọi tình cảm dành cho Đăng giờ chị dồn cho tôi. Chị mong tôi chân cứng đá mềm để theo hết nghiệp lính.

Cứ như thế, mỗi khi tôi về quê, câu hỏi “Chú về sao không thấy Đăng về?” như vẫn văng vẳng bên tai lại càng khiến cho tôi thương nhớ Đăng. Cụ Cương giờ đã về với tiên tổ. Bác Khánh giờ cũng vào tuổi 90 nhưng bác vẫn hy vọng tôi sẽ hỏi được nơi Đăng ngã xuống để đưa anh về quê... Năm nay, tôi lại về quê thăm bác Khánh và thắp nén hương nơi bàn thờ Đăng trong ngôi nhà cổ ấy. Tôi sẽ cầu nguyện cho Đăng cũng như đồng đội của chúng tôi ở trên cao phù hộ cho dân ta ấm no hạnh phúc-quốc thái dân an.

Bút ký của NGUYỄN KIM CHÚC