Năm 1906, Nguyễn Văn Vĩnh đã thực hiện được một chuyến đi quan trọng đó là dự Triển lãm thuộc địa ở Marseille và tham quan nghiên cứu đời sống báo chí, xuất bản ở Paris (Pháp). Ông từng có hơn 10 năm là công chức cao cấp trong bộ máy hành chính ở Lào Cai, Hải Phòng, Bắc Giang, Hà Nội. Nhưng từ sau năm 1907, ông thôi hẳn công chức để chuyển sang một hướng lập nghiệp mới là xây dựng nhà in, tổ chức ra báo và in sách với sự cộng tác của Schneider-một doanh nhân người Âu đã sang Việt Nam từ năm 1882 để nhận thầu với Phủ Toàn quyền các công việc in ấn ở Đông Dương.
Trong bối cảnh đầu thế kỷ 20, khi công cuộc khai thác thuộc địa của chính quyền thực dân mới chỉ bắt đầu, một hướng chọn nghề như vậy phải nói là thật bạo gan, nếu không nói là mạo hiểm. Nguyễn Văn Vĩnh chính là người sớm đứng ra tổ chức, sáng lập và chủ trì nhiều tờ báo lớn có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa dân tộc ở Hà Nội, kể từ Đăng cổ tùng báo, tiếp tục Đại Nam đồng văn nhật báo (1907), Lục tỉnh tân văn (1910), rồi Đông Dương tạp chí (1913-1917), Trung Bắc tân văn (ra hằng ngày bằng chữ Quốc ngữ, từ năm 1917), L’Annam nouveau (năm 1931)... Nhà in, rồi Nhà xuất bản Trung Bắc tân văn và Công ty Vĩnh Phúc Thành do ông sáng lập là những cơ sở sản xuất và kinh doanh lớn về in ấn, được cộng sự tin cậy là Đỗ Văn-một kỹ sư rất lành nghề đã qua trường đào tạo ở Pháp về trông coi.
Ở Nguyễn Văn Vĩnh, chủ trương truyền bá chữ Quốc ngữ và hoạt động kinh doanh in ấn là gắn bó mật thiết với nhau. Ra báo, in báo là để phổ cập và phát triển việc sử dụng chữ Quốc ngữ. Trước tác, phiên âm, dịch thuật bằng chữ Quốc ngữ và chuyển sang chữ Quốc ngữ sẽ đưa hoạt động báo chí nhanh chóng trở thành một phong trào sâu rộng, đáp ứng cho nhu cầu canh tân, hiện đại hóa đời sống văn hóa, văn chương, học thuật dân tộc.
Trên các phương tiện báo chí và in ấn được tạo dựng trong hơn 20 năm, Nguyễn Văn Vĩnh đã tập hợp được lực lượng cộng sự rất đáng kể trên hai khu vực Hán học và Tây học nhằm xây dựng một nền Quốc văn mới bằng chữ Quốc ngữ. Lực lượng này gồm những tên tuổi rất đáng trọng nể như: Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Tố, Tản Đà... Họ đều là những người uyên thâm về Hán học, nhiều người còn có vốn Tây học.
Trong cuốn "Nhà văn hiện đại", quyển I (năm 1941), Vũ Ngọc Phan đã nhận xét về họ như sau: “Nguyễn Văn Vĩnh là một người rất có công với Quốc văn... vì ông đã đứng chủ trương một cơ quan văn học vào buổi mà đối với văn chương, mọi người còn bỡ ngỡ. Ông lại hội họp được những cây bút có tiếng, gây nên được phong trào yêu mến Quốc văn trong đám thanh niên trí thức đương thời, vì ngoài một vài quyển tạp chí có giá trị, thanh niên hồi xưa không làm gì có những sách Quốc văn như bây giờ để đọc. Mà Đông Dương tạp chí hồi đó như thế nào? Người Tây học có thể thấy trong đó có những tinh hoa của nền cổ học Trung Hoa mà nước ta đã chịu ảnh hưởng lâu đời; người Hán học có thể thấy trong đó những tư tưởng mới của Tây phương là những tư tưởng mà người Việt Nam ta cần biết rõ để mà thâu thái. Những bài bình luận, những bài tham khảo về Đông phương và Tây phương đăng liên tiếp trong Đông Dương tạp chí ngày nay gửi đến, người ta vẫn còn thấy là những bài có thể dựng thành những bộ sách biên tập rất vững vàng và có thể giúp ích cho nền văn học Việt Nam hiện đại và tương lai” (theo “Nhà văn hiện đại”, quyển I, Nhà xuất bản Vĩnh Thịnh, H., tái bản, năm 1951, tr.56-57).
|
|
Học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936). Ảnh tư liệu |
Bản thân Nguyễn Văn Vĩnh, vừa làm báo, vừa tổ chức nhà xuất bản, nhà in, vừa tham gia nhiều hoạt động xã hội, vẫn còn sức thực hiện một khối lượng có thể nói là khổng lồ những trước tác và dịch thuật, ở tư cách một trí thức uyên bác và một cây dịch thuật có hạng. Ông đã để lại nhiều chục bản dịch các tác giả lớn của văn học phương Tây, gồm: Molière, Perault, Lesage, Abbé Prévost, A.Dumas, Victor Hugo, Fénélon, Plutarque, trong đó rất đáng ghi nhớ là các bản dịch Manon Lescaut của A.Prévost, "Những kẻ khốn nạn" (Les Misérables) của V.Hugo, sau này cuốn sách được tác giả khác dịch là "Những người khốn khổ", và Thơ ngụ ngôn của La Fontaine. Số lớn các dịch phẩm trên đều được đăng tải trên Đông Dương tạp chí, từ năm 1913 đến 1917 và về sau, từ cuối thập niên 1920 đến đầu 1930, đã được in thành sách trong Tủ sách Âu Tây tư tưởng cũng do ông chủ trương.
Bản dịch lần thứ hai bài "Con ve và con kiến" (La cigale et la fourrmie) của La Fontaine với lối gieo vần và ngắt đoạn rất phóng khoáng, có thể xem là bài “Thơ mới” đầu tiên ở nước ta, xuất hiện trước bài "Tình già" của Phan Khôi ngót 20 năm.
Nhận xét về công lao của Nguyễn Văn Vĩnh, trong cuốn "Việt Nam văn học sử yếu" (năm 1941), Dương Quảng Hàm viết rằng: “Ông là người học rộng, biết nhiều, lại có lịch duyệt, thiệp liệp tư tưởng học thuật của Âu Tây, nhưng cũng am hiểu tín ngưỡng, phong tục của dân ta, muốn đem những quan niệm, phương pháp mới nào hợp thời để truyền bá trong dân chúng... Văn ông bình thường, giản dị, có tính cách phổ thông tuy có châm chước theo cú pháp của văn Tây mà vẫn giữ được đặc tính của văn ta... Kể về văn dịch tiểu thuyết thì thực ông là người có biệt tài, ít kẻ sánh kịp vậy” (trích theo Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục, Sài Gòn, tái bản lần thứ 10, năm 1968, tr.416). Có thể nói, sau một khoảng lùi ngót 30 năm, mà các sản phẩm vẫn giữ nguyên giá trị, khiến “ít kẻ sánh kịp”, phải nói văn viết và văn dịch Quốc ngữ của Nguyễn Văn Vĩnh là hiện đại biết chừng nào!
Như vậy là ngay từ 1907-khi cho in lên đầu trang bìa các tập mỏng của bộ "Tam quốc chí diễn nghĩa" (do Phan Kế Bính dịch, Nguyễn Văn Vĩnh nhuận sắc để bán rất rẻ hoặc cho không người mua) dòng chữ nổi tiếng: “Nước Nam ta sau này hay hay dở cũng ở như chữ Quốc ngữ”, Nguyễn Văn Vĩnh quả đã tạo dựng được một sự nghiệp đồ sộ trên lĩnh vực kinh doanh in ấn báo chí, xuất bản. Cũng chính trên các phương tiện in ấn do mình chủ trương, Nguyễn Văn Vĩnh đã thực hiện được một sự nghiệp trước tác và dịch thuật khó ai theo kịp, góp phần quan trọng thúc đẩy nền văn chương Quốc ngữ lên một trình độ phổ cập và hiện đại, mà công cuộc canh tân văn hóa đòi hỏi.
Nguyễn Văn Vĩnh-với biệt danh Tân Nam Tử có lẽ là một trong số rất ít người Việt Nam sớm nhất mặc âu phục, tóc cắt cao, đi giày da, cưỡi xe môtô Terror đỏ chót, nói cười khoáng đạt, cởi mở... Là người sáng lập Hội dịch sách và Hội Trí tri ở Hàng Quạt (Hà Nội) năm 1907 để cổ động cho việc nâng cao dân trí và truyền bá chữ Quốc ngữ. Là người Việt Nam đầu tiên gia nhập Hội Nhân quyền Pháp năm 1906; rồi cùng với 4 thành viên người Pháp trong Hội ký đơn gửi Toàn quyền Đông Dương đòi tha cho Phan Châu Trinh, khi Phan Châu Trinh bị đày ra Côn Lôn, với án “trảm giam hậu”. Ông có quan điểm chính trị gần gũi với Phan Châu Trinh nên đã dịch từ chữ Hán sang tiếng Pháp bản "Thư gửi Toàn quyền Đông Dương" của Phan Châu Trinh viết năm 1906, và đăng trên L’Annam nouveau, ngày 23-3-1933.
Nguyễn Văn Vĩnh là người đã hai lần từ chối không nhận Huân chương Bắc đẩu bội tinh do chính quyền thuộc địa ban tặng. Là kiện tướng của phong trào báo chí và là người cha của hai nhà Thơ mới: Nguyễn Giang và Nguyễn Nhược Pháp. Ông qua đời ở tuổi 54 bởi mắc căn bệnh sốt rét ác tính khi đi tìm vàng trên đất Lào, nhưng lại được hưởng một đám ma to có rất đông các tầng lớp quần chúng đưa tiễn ở Hà Nội vào ngày 8-5-1936. Đám tang Nguyễn Văn Vĩnh nhận được nhiều câu đối viếng và lời điếu, trong đó có của Phan Bội Châu, Trần Tuấn Khải, Doãn Kế Thiện, Hoàng Ngọc Phách, Lê Thước, Dương Bá Trạc, Bùi Kỷ...
Có thể nói, sau khoảng 30 năm hoạt động, Nguyễn Văn Vĩnh đã tích cực dấn thân vào một công cuộc thử nghiệm trên nhiều lĩnh vực hoạt động với một ý chí tự học và tự lập rất cao, với một ước nguyện cũng rất cao về một sự nghiệp văn hóa do chính tay mình góp công tạo dựng. Ước nguyện ấy quả ông đã thực hiện được một phần trong tư cách người khởi xướng và vận động cho việc truyền bá chữ Quốc ngữ; trong tư cách người hoạt động dịch thuật; và bao trùm, nổi bật, trong tư cách người chủ báo, chủ xuất bản.
Tháng 5-2022
GS PHONG LÊ