Trong căn nhà trên phố Phan Đình Phùng (Hà Nội), ông Đoàn Nam Tiến-con trai Trung tướng Nam Long say sưa kể về người cha đáng kính. Sau những câu chuyện về người bảo vệ Bác Hồ trong ngày 2-9-1945, ông tiếp tục đưa chúng tôi ngược dòng ký ức về lần Nam tiến đầu tiên của cha mình cùng Chi đội 3 Giải phóng quân Nam tiến (sau đổi tên thành Chi đội Nam Long) mà cha ông là Chi đội trưởng.
Chỉ 3 tuần sau ngày nước nhà độc lập, thực dân Pháp đã nổ súng tấn công Sài Gòn (23-9-1945), mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai vào nước ta. Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, quân dân Nam Bộ đã kiên cường đứng lên kháng chiến, các đoàn Giải phóng quân từ miền Bắc cũng sẵn sàng Nam tiến. Đồng chí Nam Long bấy giờ đang là cận vệ của Bác cũng nóng lòng muốn được lên đường "chia lửa" cùng đồng bào Nam Bộ. “Cách mạng Tháng Tám thành công, về Hà Nội ở cạnh Bác vui thật là vui, nhưng bố tôi thèm được đi chiến đấu. Ông bảo thanh niên phải ra chiến trường, ăn xong rồi chơi, buồn lắm! Nhưng Bác không đồng ý. Đồng chí Nguyễn Lương Bằng động viên, an ủi nhưng lòng dạ ông vẫn bồn chồn. Ông trình bày lý lẽ: Bác đã có nhân dân bảo vệ, nhờ các anh xin với Bác cho Nam Long được ra mặt trận”, ông Đoàn Nam Tiến kể.
Phải đến lần thứ hai xin được Nam tiến, mong muốn của ông Nam Long mới thành hiện thực. Khi được Bác cử đi công tác tại Vinh (Nghệ An), ông gặp đoàn quân Nam tiến với khí thế hừng hực do đồng chí Mông Phúc Thơ chỉ huy. Nỗi khát khao ra trận của ông càng bùng cháy. Lần này, ông nhờ đồng chí Võ Nguyên Giáp gọi điện ra Bắc xin Bác thêm một lần nữa. Dù tin cẩn và quý mến người cận vệ Nam Long nhưng cuối cùng, Bác cũng chấp thuận để ông vào Nam chiến đấu.
    |
 |
Đồng chí Nam Long thời trẻ.
|
Trước giờ lên đường, Bác căn dặn: Có lòng căm thù giặc là tốt, nhưng phải biết đánh mới thắng được, nhất là với kẻ thù giàu tiền của, súng đạn, máy bay, tàu bò...
Đồng chí Nam Long chính thức trở thành Chính trị viên của Chi đội 3 Giải phóng quân Nam tiến, thay thế đồng chí Rạng được giao nhiệm vụ mới. Ông luôn khắc ghi lời Bác dạy: Có dân là có tất cả. Dân là gốc. Gốc có to, rễ có sâu thì cây mới vững. Có dân thì yếu cũng thành mạnh.
Đoàn tàu đưa đoàn quân Nam tiến tiếp tục lăn bánh, đến ga nào cũng dừng lại để tiếp nhận những thanh niên hăng hái xin đi theo đơn vị vào Nam chiến đấu. Tháng 10-1945, Chi đội 3 Giải phóng quân Nam tiến có mặt tại Mặt trận Bắc Sài Gòn. Tại đây, Ủy ban Kháng chiến miền Đông Nam Bộ được thành lập, đồng chí Mông Phúc Thơ trở thành Ủy viên quân sự, Chi đội 3 Giải phóng quân Nam tiến do đồng chí Nam Long chỉ huy. Tiếng súng của chiến sĩ Giải phóng quân vang rền ở cầu Bình Lợi, "chia lửa" với chiến sĩ, đồng bào Nam Bộ, ngăn chặn không để quân Anh và quân Pháp qua cầu. Bà con Sài Gòn bấy giờ ngưỡng mộ, khâm phục tinh thần xả thân vì đồng bào Nam Bộ của các chiến sĩ Chi đội 3 nên thường gọi với cái tên trìu mến “Chi đội Nam Long” hoặc “Bộ đội Nam Long”.
Với tinh thần "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", bước chân của các chiến sĩ Giải phóng quân Nam tiến từ cầu Bình Lợi qua Xuân Lộc, Phan Thiết tiến ra Phan Rang, vòng lên Buôn Ma Thuột đã ngăn chặn, làm chậm sự hung hăng, tàn ác của thực dân Pháp.
Đồng chí Nam Long được đồng đội tin cậy, khâm phục bởi lòng dũng cảm, can trường, mưu trí của một chỉ huy từng được học tại Trường Quân sự Hoàng Phố và đã qua chiến trận. Những ngày chiến đấu tại Mặt trận Sài Gòn, đồng chí Nam Long từng mặc quần áo rách, chỗ hở thì bôi bùn đen, tay cầm mấy tấm mía giả làm người bán hàng, sang bên kia cầu Bình Lợi trinh sát, nắm tình hình địch... Ông Đoàn Nam Tiến kể, lúc sinh thời, cha ông thường nói: “Bom đạn ngày ấy tránh tôi chứ tôi thì làm sao tránh được bom đạn". Mỗi lần đối mặt với trực thăng địch, ông thường ngồi bó gối, đầu hướng thẳng về phía máy bay. Ông giải thích rằng khi ngồi như vậy, tiết diện cơ thể nhỏ nhất, chưa chắc gì đạn bắn trúng. Còn nếu có trúng thì sẽ trúng vào đầu, chết ngay, đỡ phiền đến đồng đội.
Sau một thời gian chiến đấu ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tên tuổi ông Nam Long trở nên gần gũi, yêu thương trong lòng đồng bào. Suốt hành trình vào Nam, Chi đội 3 Giải phóng quân Nam tiến đi đến đâu cũng được nhân dân các tỉnh, thành phố chở che, đùm bọc. Người dân nhường cơm sẻ áo, dẫn đường qua những vùng hiểm trở, chung sức cùng bộ đội đánh giặc giữ nước. Tình thương yêu và sự gắn bó máu thịt ấy trở thành điểm tựa vững chắc giúp đơn vị chiến đấu thêm can trường. Đến đâu, ông cũng vận động nhân dân tiêu thổ kháng chiến, tổ chức cho bộ đội tập kích quân Pháp nhằm tiêu diệt sinh lực địch, ngăn chặn không cho chúng lấn chiếm vùng tự do của ta. Tên tuổi của Chi đội trưởng Nam Long cùng Chi đội 3 Giải phóng quân Nam tiến đã đi vào lịch sử buổi đầu kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ.
Sau này, trong lá thư gửi Chi đội Nam Long, đồng chí Trần Văn Giàu, nguyên Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ đã bày tỏ niềm xúc động sâu sắc trước tinh thần “chia lửa” của các chiến sĩ 3 miền Bắc-Trung-Nam, chỉ trong ít tuần đã vượt hàng nghìn cây số, không ngại hy sinh xương máu để kịp thời chi viện cho chiến trường Nam Bộ. Ông Trần Văn Giàu nhấn mạnh rằng, trong khi nhiều làng quê miền Bắc còn thiếu ăn, thiếu mặc thì Chi đội 3 vẫn có mặt ở những điểm nóng như cầu Bình Lợi, vườn cao su Trảng Bom, Xuân Lộc, trở thành minh chứng sống động của tình đồng bào ruột thịt.
“Cuộc đời binh nghiệp của cha tôi, từ khi được cử đi học tại Trường Quân sự Hoàng Phố năm 1941 cho đến ngày kết thúc Chiến dịch Hồ Chí Minh tháng 4-1975, chỉ gói gọn trong mấy chữ: Chiến trường là nhà, đất nước là quê hương”, ông Đoàn Nam Tiến tự hào nhắc về cha-vị tướng đã dành trọn hơn 30 năm chinh chiến, in dấu chân trên hầu hết chiến trường lớn nhỏ của đất nước.
Đặc biệt, năm 1954, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, với cương vị Tham mưu trưởng Đại đoàn 304, ông đã chỉ huy đơn vị bao vây và đánh tan quân Pháp ở phân khu Hồng Cúm, bắt sống hơn 2.000 tên địch và Đại tá Pierre Langlais (Chỉ huy phó Tập đoàn cứ điểm Ðiện Biên Phủ, đặc trách phân khu Hồng Cúm). Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tại Mặt trận Đường 9-Nam Lào năm 1971, ông tham gia chỉ huy, đánh bại Chiến dịch Lam Sơn 719 của Mỹ-ngụy. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, với cương vị đặc phái viên của Bộ Quốc phòng, đồng chí Nam Long sát cánh bên các đồng chí, đồng đội tiến vào Sài Gòn, có mặt tại dinh Độc Lập trong những giờ phút đầu tiên thành phố được giải phóng. Năm 1981, đồng chí Nam Long được phong quân hàm Trung tướng.
Trung tướng Nam Long về với thế giới người hiền năm 1999, hưởng thọ 79 tuổi. Trong ký ức đồng đội và nhân dân, ông là một đảng viên cộng sản kiên trung, giàu nhiệt huyết, sống thủy chung và chân thành. Với gia đình, ông là người chồng, người cha, người ông mẫu mực, giản dị, để lại những bài học sâu sắc cho các con qua từng lời nói, cử chỉ, tác phong làm việc hay quan tâm thăm hỏi bạn bè, đồng đội. Sự nghiệp và nhân cách của Trung tướng Nam Long được kết tinh trong 8 chữ mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp trân trọng trao tặng: “Trung dũng-Kiên cường-Chân thành-Đoàn kết”.
PHẠM XUÂN THỨ