Năm nay đã ngoài 80 tuổi, ông Tất Thọ vẫn không ngừng nghĩ về sân khấu. Ông là một “nghệ sĩ phía sau cánh gà”, người chưa bao giờ cạn ý tưởng, chưa từng thôi lo cho số phận của nghệ thuật chèo, kịch nói, những loại hình nghệ thuật biểu diễn mà ông coi là sinh mệnh của mình.

Ông sinh năm 1945, tên đầy đủ là Nguyễn Tất Thọ, hiện sống tại phường Hạ Long (Quảng Ninh), quê gốc ở Nghệ An, trong một gia đình có truyền thống Nho học. 14 tuổi, ông trúng tuyển khóa đầu tiên của Trường Ca kịch dân tộc, tiền thân của Trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà Nội. Cùng học với ông khi ấy là những tên tuổi sau này trở thành Nghệ sĩ Nhân dân như Trọng Khôi, Doãn Hoàng Giang, Thế Anh, Đoàn Dũng. Học chuyên ngành diễn viên chèo được hai năm, ông sớm nhận ra mình không có giọng hát trời phú, vóc dáng lại nhỏ bé nên chủ động chuyển hướng sang nghiên cứu lý luận và sáng tác kịch bản sân khấu. Để bồi đắp nền tảng kiến thức, ban đêm, ông theo học lớp hàm thụ đại học văn tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, do Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn làm chủ nhiệm.

leftcenterrightdel

 Nghệ sĩ Tất Thọ tham gia một chương trình của Báo và Phát thanh, Truyền hình Quảng Ninh. Ảnh: TRÚC NHI

Năm 1962, trong chuyến thực tập tại khu mỏ Hồng Quảng, khi vào tham quan hang Đầu Gỗ, ông bị mê hoặc bởi một cột nhũ đá. Ông ngồi vẽ ký họa cột nhũ đá ấy, vẽ rồi xé, xé rồi vẽ, mải mê đến mức không hay biết đoàn đã rời hang. Khi tàu quay lại tìm, Tất Thọ vẫn ngồi đó, say sưa trước vẻ đẹp của nhũ đá và ánh sáng. Từ khoảnh khắc ấy, ông “phải lòng” Hạ Long và quyết định gắn bó trọn đời với vùng đất mỏ.

Sau khi tốt nghiệp, từ năm 1963, ông cùng 21 diễn viên, nhạc công trẻ tình nguyện về Quảng Ninh công tác. Những năm sau đó, ông vừa diễn, vừa đọc sách, vừa tự học sáng tác. Sách theo ông trên xe, trong cánh gà, dưới ánh đèn sân khấu. Có hôm mải đọc đến mức quên cả hóa trang khi ra diễn như lần đóng vai cụ già trong vở “Tiếng hát người Dao”. Từ những vở chèo ngắn như “Hoa rừng” đến các vở chèo dài như “Cánh chim địa chất”, “Đảo Ngọc”, “Tiếng rừng”, sáng tác của ông luôn hướng về người lao động, người chiến sĩ, người giữ rừng, giữ biển. Rồi ông đi Trường Sơn phục vụ bộ đội trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thời gian này, ông sáng tác nhiều tác phẩm được bộ đội và thanh niên xung phong yêu thích. Cũng từ đây, ý chí sáng tác trong ông được thổi bùng mạnh mẽ.

Ông kể, năm 1979, ông được Nhà hát Chèo Việt Nam mời về dự lớp sáng tác kịch bản chèo cùng các tác giả kỳ cựu như Kính Dân, Tào Mạt, Hoài Giao, Trần Đình Ngôn, Hoàng Nam, Đồng Bằng, Trần Minh, Ngọc Phúng. Tại đây, vở chèo “Đảo Ngọc” của ông đã lọt vào “mắt xanh” của đạo diễn Trung Anh và được Nhà hát Chèo Việt Nam dàn dựng. Vở chèo kể về kỹ sư Hải tình nguyện ra Đảo Ngọc nghiên cứu việc nuôi cấy ngọc trai, nhưng bị ông trại trưởng nhỏ nhen, đố kỵ cắt cử ra tận hòn đảo hoang để trồng cam, chăn dê, làm kinh tế phụ cho công đoàn. Như Robinson một mình giữa hòn đảo vắng, trải qua bao thiếu thốn, sóng gió dập vùi, có lúc anh bị lòa cả đôi mắt. Nhưng bằng ý chí và nghị lực, cùng sự giúp đỡ tận tình của hai ông cháu cụ Vàm, một ngư dân trên biển, mắt Hải sáng trở lại. Anh nghiên cứu thành công quy trình cấy ghép ngọc trai nhân tạo đủ màu sắc, kích cỡ theo ý muốn con người. Cuối cùng, ông trại trưởng bị cách chức, Hải được trở về Đảo Ngọc tiếp tục gắn bó trọn đời với công việc mình đã chọn.

Ông Tất Thọ tâm sự, chưa bao giờ các nghệ sĩ Nhà hát Chèo Việt Nam lại say sưa vào vai như ở vở chèo này. Họ thậm chí bỏ tiền túi để mua sắm thêm phục trang, đạo cụ. Thế nhưng đêm tổng duyệt tại rạp Hồng Hà lại không suôn sẻ. Hội đồng xét duyệt của Bộ Văn hóa và Thông tin khi đó yêu cầu Nhà hát tạm dừng để chỉnh sửa trước khi công diễn. Từ rạp Hồng Hà về khu văn công Mai Dịch chừng 15 cây số, ông không đi ô tô cùng đoàn mà lặng lẽ đi bộ trong đêm khuya. Vừa hoang mang, vừa lo lắng, xót xa khi “đứa con tinh thần” chưa được ra mắt công chúng, nước mắt ông hòa vào làn mưa đêm lạnh buốt.

Nhưng Tất Thọ không bỏ cuộc. Khi chuyển sang làm văn nghệ quần chúng, ông lại lao vào cơ sở, đến với vùng sâu, vùng xa, hải đảo. Ông viết, dàn dựng, huấn luyện hàng trăm đội văn nghệ, hàng trăm kịch bản tuyên truyền, từ kế hoạch hóa gia đình đến bảo vệ môi trường, từ luật biên giới đến biển, đảo. Suốt 20 năm, ông viết kịch bản cho Bộ đội Biên phòng tỉnh, tham dự nhiều cuộc thi lớn, đoạt không ít giải cao, nhưng tên ông hầu như không được xướng lên. Ông chia sẻ, thù lao đôi khi chỉ là vài hộp sữa, cân đường, mét vải, chiếc cặp sĩ quan hay cái giường gỗ, chẳng nhiều giá trị vật chất, nhưng ông vẫn đi với niềm đam mê không nguôi. Nghỉ hưu sớm, cuộc sống khó khăn, ông từng dựng quán chè nước trước nhà để nuôi con ăn học. Rồi ông lại trở về với sân khấu, như người lính quay lại đội hình. Mới đây, ông xuất bản bộ sách 4 tập “Người hùng không cầm súng”, tập hợp các kịch bản ngắn, kịch bản dài, nhật ký Trường Sơn và những bài lý luận, phê bình về văn học, nghệ thuật. Bộ sách được nhiều nhà nghiên cứu, lý luận và bạn đọc đánh giá cao. Một kịch bản trong bộ sách đã được nhà hát kịch Hồng Vân dàn dựng và lưu diễn.

Nhìn lại hơn nửa thế kỷ lao động nghệ thuật bền bỉ, lặng lẽ, nhiều khi thiệt thòi, tôi gọi vui ông là nghệ sĩ, chiến sĩ không quân phục. Một người lính đứng trong đội hình văn hóa, chiến đấu bằng ngòi bút, bằng niềm tin rằng nghệ thuật, trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng phải được làm đến nơi đến chốn và có ích cho xã hội. Ở ông, chất nghệ sĩ và chất chiến sĩ hòa làm một, như hai mặt của một căn cước. Ông không khoác quân phục, không mang quân hàm, nhưng cả cuộc đời sáng tác của ông mang đầy đủ phẩm chất của người lính: Bền bỉ, kỷ luật, chịu đựng gian khổ và sẵn sàng hy sinh thầm lặng. Chất nghệ sĩ ở ông là sự say mê đến tận cùng, say mê đến mức quên mình, quên mệt, quên cả thiệt thòi. Hơn 80 tuổi, khi thân thể đã mỏi mòn vì tuổi tác và bệnh tật, ông vẫn đau đáu viết. Với ông, sáng tác là nhu cầu sống, như hơi thở.

Điều làm nên “vóc dáng” đặc biệt của Tất Thọ chính là chất chiến sĩ. Đó là tinh thần không lùi bước trước khó khăn, không né tránh những vấn đề gai góc của đời sống. Những gian khổ đã tôi luyện ở ông một sức chịu đựng lặng lẽ, rất lính. Ông viết, dàn dựng và đứng trong cánh gà, đội chiếc mũ bảo hiểm nặng trịch để chỉ đạo diễn viên mà không lộ mặt. Ông quen với việc chiến thắng không mang tên mình, chấp nhận đứng sau để bảo toàn giá trị cho tác phẩm. Đó là phẩm chất hiếm, bởi không nhiều nghệ sĩ sẵn sàng hy sinh cái tôi để giữ cho tác phẩm được sống.

Với Tất Thọ, nghệ thuật không phải để tô điểm bản thân mà là một hình thức phục vụ. Phục vụ nhân dân, phục vụ bộ đội, phục vụ những mục tiêu chung của cộng đồng. Từ sân khấu chuyên nghiệp đến văn nghệ quần chúng, từ rạp hát đến bản làng, hải đảo, ông đều đi đến tận cùng công việc, như người lính nhận lệnh là lên đường, không tính toán hơn thiệt. Bởi vậy, gọi Tất Thọ là nghệ sĩ thôi thì chưa đủ, gọi là chiến sĩ cũng chưa trọn. Ông là người nghệ sĩ mang tinh thần chiến sĩ và là chiến sĩ chiến đấu bằng nghệ thuật.

Trong cuộc đời sáng tác, nghệ sĩ Tất Thọ có nhiều vở diễn được giới chuyên môn đánh giá cao và khán giả mến mộ. Ông giành huy chương bạc tại Hội diễn chèo toàn quốc năm 1986. Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam trao tặng ông giải B cho kịch bản “Tiếng rừng”. Ông được trao giải A cho vở kịch ngắn “Hương đời” tại Hội diễn người cao tuổi Quảng Ninh năm 1978; giải A Hội diễn sân khấu Quảng Ninh năm 1979, cùng nhiều giải thưởng khác.

HUỆ PHƯƠNG