Phóng viên (PV): Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 được dự báo sẽ tác động mạnh vào mọi lĩnh vực của đời sống, trong đó có hoạt động quân sự. Là người nghiên cứu lâu năm trong khoa học tổ chức chỉ huy quân y, theo ông, lĩnh vực này sẽ đổi mới theo hướng nào?

Thiếu tướng, GS, TS Nguyễn Tụ: Đổi mới là tất yếu nhưng phải luôn gắn liền giữa truyền thống và hiện đại. Tôi đã tham gia cứu chữa thương binh, bệnh binh trong kháng chiến chống Pháp, từ Chiến dịch Việt Bắc (1947), Chiến dịch Tây Bắc (1952) đến Chiến cuộc Thu Đông 1953-1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, rồi bao năm kháng chiến chống Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên, cuộc chiến bảo vệ biên giới... Từ kinh nghiệm trong mỗi trận chiến đấu, mỗi chiến dịch đó, các nhà khoa học quân y Việt Nam đã xây dựng, hình thành lý luận và thực hành cho chuyên ngành Tổ chức chỉ huy quân y phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Những kinh nghiệm này là bài học quý giá mà trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, có đi học ở bất kỳ đâu cũng không có. Tôi nhớ thời đi học ở Liên Xô (trước đây), các giáo sư nói quân đội Liên Xô chuyển thương bằng máy bay và hỏi tôi: “Bên cậu thì chuyển thương bằng gì?”. Khi tôi nói, chúng ta chuyển thương bằng xe đạp thì họ rất ngạc nhiên. Có những kinh nghiệm của chúng ta, nếu chỉ giải thích thì người nước ngoài không hiểu được ngay đâu. Ví dụ chuyện cáng thương, tại sao ta lại yêu cầu mỗi chiến sĩ tải thương phải có cây gậy chống ba chạc. Có cây gậy ấy, khi đổi vai rất dễ và nhẹ nhàng. Đặc biệt là khi nghỉ, dù bất cứ địa hình nào thì đều có thể cắm gậy xuống, đặt cáng lên, thương binh yên tâm trên cáng mà người khiêng lại được nghỉ ngơi.

Tôi nhớ mãi kỷ niệm tổ chức quân y trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đại đoàn 316 đánh đồi A1, ác liệt lắm, thương vong rất nhiều, mọi hoạt động cứu chữa thương binh đều dưới hầm được khoét ngay bên vách các chiến hào. Lúc đó, quân y của một trung đoàn bố trí phòng mổ ở phía trong cùng giao thông hào, kết quả là tắc, trong khi nhiều phẫu thuật viên ngồi chơi thì nhiều thương binh cần mổ ngay không vào được hầm phẫu thuật. Đấy, kinh nghiệm bố trí các hầm cấp cứu sao cho thông thoáng của đội phẫu tiền phương là bài học quý giá như thế. Một phẫu thuật viên mắc sai lầm thì chỉ ảnh hưởng đến một thương binh. Còn tổ chức quân y mà không khoa học thì ảnh hưởng đến cơ hội được cứu chữa của rất nhiều thương binh. Cho nên thời nào cũng vậy, tổ chức là trước hết, phải là số một.

leftcenterrightdel

Thiếu tướng Nguyễn Tụ tại buổi gặp mặt đồng đội B3-Tây Nguyên, ngày 24-3-2018. 

Ảnh: Hồng Vân

PV: Các cựu chiến binh ở chiến trường Tây Nguyên thời chống Mỹ kể rằng, quân y B3 đã sáng chế ra loại thuốc "Bê-ba-min” ngay tại chiến trường với công dụng chữa sốt rét rất hiệu quả. Tên loại thuốc này thật thú vị, phải không ạ?

Thiếu tướng, GS, TS Nguyễn Tụ: Năm 1965, Mỹ leo thang chiến tranh với chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, tôi được giao nhiệm vụ đi B. Vào đến Tây Nguyên, tôi làm Phó chủ nhiệm rồi Chủ nhiệm quân y B3-Mặt trận Tây Nguyên suốt những năm chống Mỹ. Chiến trường Tây Nguyên như anh biết, lương thực, thực phẩm thiếu nên bộ đội bị sốt rét và suy dinh dưỡng rất nhiều. Sốt rét mà phải chịu đói khiến người bệnh chuyển nặng, không ít chiến sĩ tử vong ngay trên tăng võng. Đây là nguyên nhân chủ yếu khiến các đơn vị mất quân số chiến đấu. Trước tình hình đó, chúng tôi đề xuất giải pháp “Tăng cường cán bộ, xây dựng cơ số cấp cứu sốt rét ác tính, điều trị tại chỗ” và đã thành công, hạ thấp được tỷ lệ tử vong xuống còn một nửa (10%) so với trước.

Nhưng thương binh, bệnh binh cần nhiều hơn thế, nhất là cần được bổ sung đạm. Một lần, chúng tôi đi dọc lưu vực sông Pô Cô thấy giun đất (địa long) trồi lên rất nhiều. Tôi bỗng nhớ bài thuốc dân gian của ông bà ta trước đây, cho người bị sốt rét nuốt sống con giun đất thì sẽ khỏi. Anh em xưởng dược hưởng ứng ngay, đi đào được hàng tấn giun đất mỗi mùa. Về làm sạch, cho vào nồi áp suất thủy phân, cô đặc thành dạng cao lỏng rồi đóng thành viên. Tôi cho gửi loại “cao đạm” này ra Bắc nhờ kiểm nghiệm. Anh em báo vào, trong “viên thuốc” đó có nhiều thành phần axit amin hiếm và các vitamin ngang với viên đạm Moriamin quý hiếm mà quốc tế viện trợ cho ta lúc đó. Thế là “cao đạm” được dùng rộng rãi, giúp thương binh, bệnh binh hồi phục nhanh sức lực. Sau, cũng chính anh em xưởng dược, đề nghị đặt tên loại “cao đạm” này là “Bê-ba-min” để kỷ niệm về chiến trường B3.

PV: Chiến trường B3 đầy gian khổ thời đó, các chiến sĩ quân y đã có rất nhiều sáng kiến độc đáo trong tự tạo nguồn thuốc chữa bệnh cho bộ đội?

Thiếu tướng, GS, TS Nguyễn Tụ: Đúng vậy! Nói về khó khăn thì khỏi phải bàn, khó nhất là thiếu lương thực trầm trọng. Tôi nhớ anh Hoàng Minh Thảo (Thượng tướng Hoàng Minh Thảo-PV) khi vào Tây Nguyên nhận chức Tư lệnh thay anh Chu Huy Mân (Đại tướng Chu Huy Mân-PV) đã nói: “Bây giờ gạo là tư lệnh chứ không phải tôi”. Khó, đói đến mức Bộ tư lệnh Mặt trận có chủ trương chỉ để lại các đơn vị chủ lực trực tiếp chiến đấu, còn các đơn vị bảo đảm ở hậu cứ thì chuyển hết ra Bắc. Với trách nhiệm Chủ nhiệm quân y, tôi có báo cáo, xây dựng được một bệnh viện ngay tại chiến trường phải mất 5-7 năm mới đi vào nền nếp, các anh nên cân nhắc kẻo sau này không bảo đảm kịp sự phát triển của tình hình giải phóng miền Nam. Bộ tư lệnh nghe ra, chỉ chuyển trường quân y, còn các đội điều trị, các bệnh viện vẫn ở lại bám chiến trường.

Vì khó khăn như thế nên chúng tôi phải chủ động tìm nguồn thuốc và thức ăn bồi dưỡng cho thương binh, bệnh binh. Từ việc tự nấu thủy tinh để làm ống tiêm đến dùng lân tơ uyn (một loại cây leo rừng) thay thuốc kháng sinh, rồi tự nấu rượu để cất lấy cồn sát trùng hay dùng búp lá chuối rừng non đắp lên các vết bỏng bom napal giúp chiến sĩ đỡ đau trong thay băng điều trị. Ngoài sáng chế ra “Bê-ba-min”, sáng chế ra cao voi cũng rất độc đáo và hiệu quả. Rừng Tây Nguyên hồi đó nhiều xác voi chết do bom đạn, tôi bàn với anh chị em xưởng dược đề nghị bộ đội đánh dấu vị trí lại, khi thịt voi phân hủy thì cử người đến thu nhặt xương voi nấu thành cao. Đây cũng là nguồn thuốc quý phục hồi sức khỏe bộ đội.

PV: Những sáng chế đó có mối liên hệ mật thiết với các bài thuốc dân gian. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên có tham gia gì với bộ đội trong các sáng chế đó?

Thiếu tướng, GS, TS Nguyễn Tụ: Hầu hết các sáng chế đều bắt nguồn từ kinh nghiệm của đồng bào Tây Nguyên, chúng tôi đã học đồng bào rất nhiều. Ví như việc chế thuốc ngủ giúp các thương binh, bệnh binh ngủ ngon giấc. Thấy đồng bào thường vào rừng đào củ bu man về ngâm dưới suối 7 ngày mới giã thành bột ăn, chúng tôi hỏi vì sao thì họ giải thích nếu không ngâm đủ 7 ngày thì ăn vào sẽ buồn ngủ. Tôi bỗng nhớ đến củ bình vôi ngoài Bắc, cũng là củ có chất gây buồn ngủ nên đã dùng củ bu man để thử, rồi thành công với loại “thuốc ngủ” này.

Có nhiều bài thuốc dân gian của đồng bào mà chúng tôi chưa học được hết. Như có lần đồng chí nữ Bí thư Huyện ủy Huyện 40 có thai, đến quân y khám thì lại phát hiện có lao. Chúng tôi lúng túng, để cứu mẹ thì phải phá thai, nhưng ở chiến trường đâu có phương tiện, thuốc thang. Thế mà chị ấy vào rừng tìm một loại củ để uống, thai ra ngay. Đến khi chị ấy bị chảy máu, chúng tôi chưa có cách nào cầm lại thì chị ấy lại nhờ người vào rừng tìm một loại lá, uống vào là cầm máu ngay. Bài thuốc hay thế nhưng chị ấy không truyền cho chúng tôi và nói chỉ truyền cho con gái…

PV: Những người lính đã trải qua chiến tranh nói chung, các cựu chiến binh Mặt trận Tây Nguyên nói riêng dành cho nhau một tình cảm rất đặc biệt, vượt lên cả tình đồng chí, đồng đội thông thường. Ông có thể cắt nghĩa hoặc định danh tình cảm đó không ạ?

Thiếu tướng, GS, TS Nguyễn Tụ: Tôi cũng không cắt nghĩa hết cái tình của người lính Tây Nguyên. Sau chiến tranh, bắt đầu từ năm 1986, thấm thoắt đến nay 32 mùa xuân đã trôi qua, Ban liên lạc Đồng đội Quân y Tây Nguyên-B3-Quân đoàn 3 tổ chức gặp mặt thường xuyên vào tháng Ba hằng năm. Gặp nhau thường xuyên như vậy mà lần nào cũng thương thương, nhớ nhớ, mừng mừng, tủi tủi, để giãi bày tâm sự, ôn lại những ngày đầy gian khổ, hy sinh mất mát nhưng rất tự hào được hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước, cho Tây Nguyên. Tháng Ba với những người lính B3-Tây Nguyên trước đây, nay là Quân đoàn 3 luôn đầy ắp kỷ niệm gắn với những địa danh như: Đắc Tô, Tân Cảnh, Plei Me, Mang Yang, Đường 19, Cheo Reo, Bu Prăng-Đức Lập, Tịnh Biên, Vị Xuyên hay những con sông hiền hòa Sa Thầy, Pô Cô, Ia Đrăng, Sê San, rồi những dòng thác dữ Ia Ly, Sêrêpôk rồi đến cả Prếch Vi-hia, Stung Treng, Công-pông Chàm (Campuchia) và rất nhiều nơi khác nữa đã in đậm dấu chân chúng tôi. Chúng tôi rất đỗi tự hào kể lại cho con cháu và thế hệ mai sau, rằng tuổi thanh xuân của mình đã hiến dâng để đổi lấy hòa bình, độc lập, thống nhất của đất nước hôm nay và các thế hệ con cháu phải biết tôn trọng quá khứ, vun đắp cho tương lai, xây dựng đất nước theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” …

Cuộc trò chuyện của chúng tôi về những người lính quân y B3 Tây Nguyên còn kéo dài nữa. Thiếu tướng, GS, TS Nguyễn Tụ kể về trăn trở của mình trước những mảnh đời, những số phận của các nữ chiến sĩ quân y khi trở về đời thường, không chồng, không con, cuộc sống đầy gian lao nhưng không bao giờ mất niềm tin vào Đảng, không lùi bước trước những thói hư tật xấu của xã hội thời kinh tế thị trường… Do khuôn khổ bài báo có hạn, chúng tôi xin dừng câu chuyện ở đây. Trân trọng cảm ơn bạn đọc đã chú ý theo dõi!

Thiếu tướng, GS, TS Nguyễn Tụ sinh ngày 4-11-1928, nguyên là Phó giám đốc, Bí thư Đảng ủy Học viện Quân y. Ông đã trải qua hầu hết các chiến dịch lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sau khi nghỉ hưu, ông vẫn hướng dẫn 10 nghiên cứu sinh làm luận án tiến sĩ y học, tham gia nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, câp Nhà nước. Những công trình khoa học lớn mà là tác giả hoặc đồng tác giả: “Nghiên cứu tổng kết công tác bảo đảm quân y trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ”, “Bảo đảm quân y cho quần đảo Trường Sa” …

HỒNG HẢI (thực hiện)