Cách đây không lâu, Ủy ban Di sản Thế giới của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã công nhận Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử-Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc (thuộc địa bàn Quảng Ninh, Bắc Ninh và TP Hải Phòng) là DSVH thế giới. Theo thống kê của Cục DSVH (Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch), tính đến tháng 9-2025, Việt Nam có hơn 40.000 di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh; gần 70.000 DSVH phi vật thể được kiểm kê, trong đó có 38 di sản được UNESCO ghi danh.

Đằng sau những con số ấy là kho tàng khổng lồ về lịch sử, tri thức, tín ngưỡng, mỹ thuật, ngôn ngữ, những giá trị đã góp phần làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là những DSVH đều bị ảnh hưởng khắc nghiệt của thời gian. Mưa nắng, thiên tai, đô thị hóa, biến đổi khí hậu và sự quan tâm chưa thỏa đáng ở một số địa phương làm cho di sản xuống cấp. Không ít hiện vật quý có nguy cơ mai một do hư hỏng. Công nghệ số ra đời mở ra con đường mới, hướng đi mới: Lưu giữ, tái hiện, lan tỏa và “làm sống lại” di sản trong không gian số.

Số hóa DSVH được hiểu ngắn gọn là ứng dụng công nghệ hiện đại như quét 3D, thực tế ảo (VR/AR), trí tuệ nhân tạo (AI), cơ sở dữ liệu lớn (Big Data)... để thu thập, lưu trữ, quản lý và phổ biến thông tin về di sản. Mục tiêu chính là “sao lưu” và làm cơ sở tái sinh giá trị di sản trong đời sống đương đại.

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã đi trước trong số hóa di sản. Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng “Bản đồ di sản số” cho toàn quốc. Nhật Bản có “Digital Museum”, nơi mỗi công dân có thể truy cập hàng chục nghìn di vật cổ qua không gian ảo. Trung Quốc đang triển khai dự án “Đại dữ liệu di sản văn hóa” quy mô quốc gia, cho phép truy xuất mọi di tích chỉ qua một mã QR.

Ở Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã triển khai chương trình chuyển đổi số ngành văn hóa. Từ đây, nhiều bảo tàng lớn như Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học... đã thực hiện số hóa hàng chục nghìn hiện vật. Bên cạnh đó, nhiều di sản phi vật thể như hát Xoan, Ca trù, Quan họ, Nhã nhạc cung đình Huế... đã được ghi âm, ghi hình, xây dựng cơ sở dữ liệu trực tuyến.

Đặc biệt, một số dự án sáng tạo như “Đền Hùng trong không gian 3D”, “Hoàng thành Thăng Long ảo”, “Không gian số văn hóa Việt” do các viện nghiên cứu, doanh nghiệp và nhóm trí thức trẻ thực hiện đã chứng minh: Công nghệ có thể kéo gần con người với lịch sử, khiến di sản trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Thực tế ấy giúp chúng ta hiểu sâu sắc rằng, nhân dân chính là chủ thể của di sản, không phải “đối tượng lưu trữ”. Họ chính là người gìn giữ, người kể lại câu chuyện của quê hương mình. Ứng dụng công nghệ để người dân tham gia ghi chép, chụp ảnh, chia sẻ câu chuyện di sản cũng là một cách lan tỏa tinh thần cộng đồng. Đây được xem như một trong những yếu tố từng làm nên sức mạnh bền vững của văn hóa Việt.

Dù đạt được nhiều kết quả, tiến trình số hóa di sản ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Theo các chuyên gia, quá trình số hóa DSVH có 3 “điểm nghẽn” nổi bật mà nếu không kịp thời khơi thông, tháo gỡ sớm, công cuộc số hóa di sản có nguy cơ trở thành “mảnh ghép rời rạc”, thiếu liên kết, không đủ sức hình thành hệ sinh thái số bền vững.

leftcenterrightdel

Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử là di sản văn hóa thế  giới. Ảnh: CHÍ KIÊN 

Đầu tiên, đó là thiếu cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản. Hiện nay, dữ liệu số hóa nằm rải rác ở các cơ quan, viện, bảo tàng, địa phương mà chưa có hệ thống liên thông, chuẩn hóa. Mỗi đơn vị số hóa theo cách riêng, dẫn đến trùng lặp, khó tra cứu, khó chia sẻ. Một di tích có thể được quét 3D ở nhiều nơi, nhưng lại không có dữ liệu thống nhất để khai thác hiệu quả.

Tiếp theo là thiếu nhân lực có năng lực số. Thực tế cho thấy, người làm văn hóa ít được đào tạo công nghệ, còn kỹ sư công nghệ lại không hiểu sâu về văn hóa. Khoảng trống này khiến việc số hóa nhiều khi chỉ dừng ở hình thức, chưa chạm tới chiều sâu giá trị.

Cuối cùng là thiếu cơ chế chính sách và nguồn lực tài chính. Số hóa là quá trình tốn kém, đòi hỏi hạ tầng lưu trữ lớn, công nghệ cao, bản quyền phần mềm và đội ngũ duy trì. Nhiều địa phương muốn làm nhưng không có kinh phí; nhiều doanh nghiệp muốn đầu tư nhưng thiếu khung pháp lý rõ ràng.

Số hóa DSVH có thể trở thành động lực cho nhiều lĩnh vực. Ví dụ, trong giáo dục, học sinh có thể tham quan di tích bằng công nghệ thực tế ảo, học lịch sử qua mô hình 3D sinh động. Trong du lịch, du khách có thể trải nghiệm “Tour di sản số”, tra cứu thông tin qua mã QR, thuyết minh tự động bằng giọng nói. Trong nghiên cứu khoa học, các nhà sử học có thể đối chiếu dữ liệu số, phục dựng cổ vật, tái hiện không gian xưa. Trong kinh tế sáng tạo, nghệ sĩ, nhà thiết kế có thể khai thác chất liệu truyền thống từ kho dữ liệu di sản để tạo ra sản phẩm mới mang bản sắc Việt.

Các nhà khoa học đã chứng minh, khi di sản được lan tỏa qua công nghệ, giá trị văn hóa trở thành nguồn lực phát triển chứ không chỉ là ký ức để hoài niệm. Tuy nhiên, số hóa DSVH không phải là công việc ngắn hạn. Nó đòi hỏi một chiến lược lâu dài, có sự phối hợp liên ngành. Để đạt được mục tiêu, cần có chiến lược căn cơ và trước mắt cần đi vào giải quyết mấy vấn đề.

Trước hết, cần xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về DSVH Việt Nam. Đây phải là nền tảng thống nhất, có chuẩn kỹ thuật chung, liên thông giữa các bộ, ngành, địa phương. Mỗi DSVH cần có “mã định danh số”. Cần có kế hoạch lâu dài về đào tạo đội ngũ nhân lực số trong lĩnh vực văn hóa. Các trường văn hóa, nghệ thuật, bảo tàng cần mở chuyên ngành mới về công nghệ bảo tồn, kỹ thuật số hóa, quản trị dữ liệu văn hóa. Bên cạnh đó, cũng cần khuyến khích doanh nghiệp công nghệ tham gia như đối tác chiến lược.

Ban hành cơ chế khuyến khích xã hội hóa và hợp tác công-tư. Trong lĩnh vực này, Nhà nước giữ vai trò định hướng, xây dựng chuẩn, còn doanh nghiệp có thể đảm nhận phần công nghệ, nền tảng, truyền thông. Nhiều nước đã chứng minh, khi khu vực tư nhân tham gia, tiến trình số hóa sẽ nhanh và bền hơn.

Dữ liệu di sản là tài sản đặc biệt. Một khi để thất thoát ra ngoài hoặc bị chiếm dụng, không chỉ mất giá trị kinh tế mà còn tổn hại đến chủ quyền văn hóa. Do đó, cần hạ tầng lưu trữ an toàn, máy chủ đặt trong nước, quy định chặt về khai thác và chia sẻ dữ liệu. Thực chất của vấn đề này là xây dựng hạ tầng riêng để bảo đảm an ninh, bản quyền và chủ quyền dữ liệu văn hóa.

Một di sản được tái hiện bằng công nghệ ảo, một bảo tàng trực tuyến mở cửa 24/7, một lễ hội truyền thống được truyền trực tiếp tới hàng triệu người... đó là những “pháo đài mềm” bảo vệ tinh thần Việt trong thế giới phẳng.

Giải quyết vấn đề số hóa DSVH là giải quyết mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa ký ức và tương lai. Không thể bảo tồn bằng cách giữ nguyên mà cần một cách tiếp cận mới, đó là bảo tồn động, nơi di sản được “sống” trong không gian số, được tiếp cận bằng công nghệ nhưng lan tỏa bằng cảm xúc và lòng tự hào.

Khi công nghệ chạm tới chiều sâu văn hóa, khi tri thức số song hành cùng bản sắc dân tộc, khi mỗi người dân cảm thấy mình là “người giữ hồn Việt”, đó sẽ là lúc di sản không chỉ được lưu giữ mà thực sự được hồi sinh.

Đó cũng là cách để Việt Nam bước vào kỷ nguyên số với một tâm thế tự tin, bản lĩnh và đầy bản sắc.

BÀN TUẤN NĂNG