“Chín năm làm một Điện Biên

Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”  (Tố Hữu)

Đã 70 năm sau ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ, phần lớn chiến sĩ Điện Biên nếu không ngã xuống nơi chiến trường ác liệt “máu trộn bùn non” thì cũng đã dần dần trở về với tổ tiên, nguồn cội. Người liệt sĩ Điện Biên 70 năm trước: “Thân ngã xuống thành đất đai Tổ quốc/ Hồn bay lên hóa nguyên khí quốc gia” đúng như đôi câu đối tri ân trước Đền thờ Liệt sĩ tại Chiến trường Điện Biên Phủ đã trở thành một phần của lịch sử. Sắc lúa non xanh cánh đồng Mường Thanh ngày mới tinh sương thơm thảo, sắc ban trắng rung rinh đỉnh đồi A1 trong ráng chiều tà sao như ứa đỏ khôn khuây? Một Điện Biên 70 năm đã qua vẫn thật gần trong đôi mắt đục mờ, mái đầu phơ bạc, ngực phủ đầy huân, huy chương cũng đã bạc sờn theo năm tháng của 142 chiến sĩ Điện Biên đang còn sống trên địa bàn tỉnh.

Trong chuyến đi Điện Biên dâng hương các nghĩa trang liệt sĩ, tôi may mắn được gặp một số cựu chiến binh trực tiếp chiến đấu trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Các cụ đều đã trên 90 tuổi, có cụ đã 103 tuổi, có dấu hiệu nhớ nhớ, quên quên của tuổi già. Vậy mà khi nhắc về đồng đội hy sinh, ai cũng rơi nước mắt...

Tại Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia A1, thật tình cờ, chúng tôi được gặp con gái của một chiến sĩ Điện Biên, đó là chị Nguyễn Thị Nhung. Chị Nhung vừa nghỉ hưu sau hơn 30 năm làm công việc quản trang tại Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia A1. Chị bảo, Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia A1 nơi chúng tôi đang đứng đây có 645 ngôi mộ thì chỉ có 53 phần mộ có tên. Nghĩa trang Độc Lập với 2.432 phần mộ cũng chỉ có 229 ngôi mộ có tên. Đặc biệt xúc động với Nghĩa trang Him Lam có 896 phần mộ đều là những liệt sĩ khuyết danh đã cống hiến máu xương cho Tổ quốc. Chúng tôi ai nấy đều sững người, những con số chị đưa ra khiến mọi người không cầm được nước mắt.

Buổi sáng, sau khi thăm tượng đài ghi tội ác chiến tranh tại Noong Nhai, nơi thực dân Pháp ném bom sát hại 444 đồng bào ta mà phần lớn là người già, phụ nữ, trẻ nhỏ, chúng tôi đến gặp cụ Nguyễn Văn Khả sinh năm 1930, quê gốc ở Tứ Kỳ (Hải Dương) là bố chị Nhung. Cụ là chiến sĩ cối 82mm, trực tiếp đánh đồi A1 đợt cuối cùng vô cùng ác liệt. Người chiến sĩ Điện Biên nước da đồi mồi đã sạm đi, cặp mắt đục mờ rưng lệ kể về sự hy sinh của đồng đội. Tiếng nói cụ Khả khi được, khi mất khiến chúng tôi có lúc hẫng đi chỉ biết nhìn ra khoảng trống mênh mông vời vời Mường Thanh lúa thì con gái.

Sau chuyến công tác đặc biệt, với những cung bậc cảm xúc về Điện Biên, về chiến tranh, về lửa đỏ, bùn và máu, sắc trắng hoa ban, mướt xanh đồng lúa hát, ánh mắt-nụ cười của thiếu nữ Điện Biên thướt tha áo dài chen hàng cóm căng tràn nhựa sống, tôi như lạc vào một trường cảm xúc vừa bi tráng, lẫm liệt trước tầng tầng mộ khuyết danh nơi các nghĩa trang Điện Biên, vừa hân hoan trước nhịp sống của 19 dân tộc anh em nơi đây. Quả thực cuộc sống luôn chuyển động không ngừng cũng đều hướng tới các giá trị nhân văn của chúng ta hôm nay để xứng đáng với máu xương người đã khuất.

leftcenterrightdel
Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Pa Thơm (BĐBP tỉnh Điện Biên) tuần tra trên tuyến biên giới Việt Nam-Lào. Ảnh: ANH DŨNG 

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, thời kỳ nào, thời đại nào dân tộc ta cũng phải đứng lên chống ngoại xâm để bảo vệ non sông và đã lập nên nhiều chiến công hiển hách. Đó là chiến thắng Bạch Đằng năm 938 trong kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán; chiến thắng tại phòng tuyến sông Như Nguyệt năm 1077 trước quân xâm lược Tống; chiến thắng Đông Bộ Đầu năm 1258, chiến thắng Chương Dương-Thăng Long năm 1285 và chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 trong 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên-Mông; chiến thắng Tốt Động-Chúc Động năm 1426 và chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang năm 1427 trong cuộc chiến chống quân xâm lược nhà Minh; chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút năm 1785 đánh tan quân Xiêm; chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa năm 1789 đánh tan quân xâm lược nhà Thanh... Trong thời đại Hồ Chí Minh là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa Xuân 1975. Chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những chiến công rực rỡ nhất trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.

Không phải đợi đến dấu mốc 70 năm, mà ngay sau khi chúng ta giành Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu lịch sử quân sự, các học giả, tướng lĩnh, nhà báo, nhà văn của cả hai bên dày công tìm hiểu, nghiên cứu và viết nhiều công trình về sự kiện này. Nhiều người đã đặt ra những câu hỏi hóc búa và đi tìm lời giải. Có lời giải phải hàng chục năm mới tìm ra một cách thỏa đáng nhất, sáng suốt nhất, công bằng nhất. Dường như mọi cách lý giải càng dần dần đồng quy về một mối, đó chính là cội nguồn văn hóa và trí tuệ Việt Nam là nguyên nhân chính yếu làm nên Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Cội nguồn văn hóa và trí tuệ Việt Nam là nền tảng sâu rễ bền gốc nhất làm nên chiến thắng. Nếu không có cội nguồn văn hóa và trí tuệ, đã không thể nào có Trưng nữ vương phận đàn bà con gái vùng lên đánh đuổi giặc phương Bắc, xưng vương lập quốc, sử sách lưu danh. Từ cội nguồn văn hóa và trí tuệ, nên Triệu Thị Trinh khi vung gươm khởi nghĩa đánh quân Ngô đã khảng khái nói: “Ta chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở Biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”.

Nếu không có cội nguồn văn hóa và trí tuệ từ cha ông để lại, Lý Thường Kiệt đã không thể đem quân thủy bộ sang dạy cho người phương Bắc một bài học về nghệ thuật quân sự đã được đưa vào sử sách. Cũng chính từ cội nguồn văn hóa và trí tuệ ấy, Trần Quốc Tuấn đã thong thả nói một câu thể hiện đầy đủ bản lĩnh, khí phách của người Việt trước giặc mạnh: “Bẩm hoàng thượng, năm nay đánh giặc nhàn”. 

Cội nguồn văn hóa và trí tuệ Việt Nam càng được phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trăm nghìn gian khổ. Đất nước ta từng lầm than, chịu ách nô lệ trăm năm vùng đứng lên giành độc lập dân tộc, vừa diệt giặc đói, giặc dốt, vừa phải đương đầu với giặc ngoại xâm hùng mạnh, nếu không dựa vào cội nguồn văn hóa và trí tuệ sẽ chỉ là mò kim đáy bể, lấy trứng chọi đá, việc lớn khó thành.

Điện Biên Phủ là sự tập trung cao của cả hai bên tham chiến, là cuộc đọ sức quyết liệt nhất, toàn diện nhất giữa ta và địch. Khi bước vào chiến dịch này, nhân dân ta đứng trước muôn vàn khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua. Thế mà, sau thời gian chuẩn bị và 56 ngày đêm liên tục chiến đấu, ngày 7-5-1954, quân ta đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm. Chính vì thế, Điện Biên Phủ là thất bại thảm hại nhất của thực dân Pháp và là một trong những chiến công chói lọi trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của chính nghĩa đối với bạo tàn, thắng lợi của ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc Việt Nam. Sau thất bại này, thực dân Pháp buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, ký Hiệp định Geneva năm 1954, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Cội nguồn văn hóa và trí tuệ Việt Nam chính là nền tảng căn cốt nhất làm nên Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Chiến thắng này là đỉnh cao nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và vận dụng nghệ thuật quân sự; nó mang ý nghĩa thời đại sâu sắc, mở ra một trang sử mới trong công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau này.

Người chiến sĩ dù ở bất cứ nơi đâu và thực hiện bất cứ nhiệm vụ gì đều luôn hướng tới nhân dân và Tổ quốc. Hàng nghìn liệt sĩ khuyết danh ở các nghĩa trang Điện Biên đã lấy máu xương của mình đổi lấy cuộc sống thanh bình cho chúng ta hôm nay. Đất nước phát triển từng ngày. Điện Biên từng ngày thay da đổi thịt. 19 dân tộc anh em quây quần, kết đoàn, kề vai sát cánh với trí tuệ và niềm tin của mình chung tay góp sức cho một Điện Biên phát triển bền vững. Máu xương của đồng bào, chiến sĩ hòa trộn vào đất đai Điện Biên để những cánh đồng cho mùa màng bội thu, những vườn cây thắm thơm hoa trái. Điện Biên luôn ở trong trái tim của nhân dân cả nước. Mọi người dân trên khắp đất nước và những kiều bào ở nước ngoài đang hướng về, đi tới Điện Biên. Ngày trước, người chiến sĩ lấy thân mình đo bước chiến hào đi, máu tuổi đôi mươi bầm đen lửa đạn dây thép ba tầng, hy sinh rồi vẫn trong tư thế tiến công lô cốt địch. Giá từng thước đất ở Điện Biên là cái giá không thể đo đếm bằng tiền tài, vật chất. Giá của cuộc sống hòa bình hôm nay càng không thể đo được bằng tiền bạc mà phải là sự biết ơn, gánh lấy trọng trách, bước tiếp chặng đường mà cha ông ta đã phải đổi bằng xương máu của hàng nghìn, hàng vạn, thậm chí là hàng triệu liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trong các cuộc chiến tranh.

Máu xương của liệt sĩ trong các cuộc chiến tranh đã góp vào khơi dậy cội nguồn văn hóa và trí tuệ của mỗi chúng ta trong bước đường phía trước.

Văn hóa và trí tuệ của người Việt Nam ta chắc chắn sẽ mãi mãi trường tồn, làm nên những dấu mốc lịch sử mới.

Bút ký của PHÙNG VĂN KHAI