Thạc sĩ NGUYỄN VĂN HÀO, Viện Báo chí-Truyền thông, Học viện Báo chí và Tuyên truyền:
Trang bị kỹ năng kiểm chứng nguồn tin trước AI
Trong kỷ nguyên số, sinh viên ngành báo chí-truyền thông cần được trang bị tư duy sáng tạo nội dung và năng lực công nghệ số toàn diện. Vì thế, giảng viên phải trở thành người cố vấn kỹ thuật số (Digital Mentor), biết kết hợp tri thức, đạo đức, tự cập nhật để bắt nhịp và làm chủ các công nghệ mới. Giảng viên không chỉ truyền đạt lý thuyết mà còn dẫn dắt người học sáng tạo nội dung số, hiểu cách vận hành các nền tảng và tư duy sản phẩm truyền thông. Giữa làn sóng trí tuệ nhân tạo (AI), Big Data, Deepfake, giảng viên cần trang bị cho sinh viên kỹ năng phân tích, kiểm chứng nguồn tin và bảo vệ sự thật...
Tại Viện Báo chí-Truyền thông, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, các học phần: Kỹ thuật và công nghệ truyền thông số, MegaStory, Hoạt hình, MV âm nhạc... đều được tích hợp AI, Big Data và mô hình tòa soạn số. Sinh viên được hướng dẫn sử dụng Chat GPT để nghiên cứu ý tưởng, Canva AI để thiết kế, Gemini để vẽ storyboard hay tạo đồ họa, video tự động. Các nhóm sinh viên được mô phỏng toàn bộ quy trình sản xuất nội dung số, từ thu thập dữ liệu đến phân phối đa nền tảng; giúp tăng hứng thú, phát triển tư duy dữ liệu và sáng tạo nội dung thực tế trong môi trường truyền thông số.
Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy CĐS đòi hỏi một chiến lược tổng thể, lâu dài và đồng bộ. Thứ nhất, cần tái cấu trúc chương trình đào tạo, chuyển trọng tâm từ dạy công cụ sang tư duy sản phẩm số và nâng cao ý thức, đạo đức nghề nghiệp khi sinh viên ứng dụng AI. Mục tiêu là giúp người học có lập trường chính trị kiên định, phẩm chất đạo đức tốt, kiến thức xã hội sâu rộng và luôn giữ tính định hướng, nhân văn và trung thực. Thứ hai, cần đồng bộ hóa hạ tầng và nâng cao năng lực số của giảng viên và sinh viên: Xây dựng phòng Lab mô phỏng tòa soạn hội tụ ảo (Virtual Newsroom Lab) gắn với chương trình bồi dưỡng năng lực số bắt buộc, bảo đảm sự tương thích giữa lý thuyết và thực tiễn công nghệ. Thứ ba, nên đẩy mạnh hợp tác thực tiễn thông qua mô hình đào tạo dựa trên dự án (Project-Based Learning) với các cơ quan báo chí, tạo dòng chảy tri thức liên tục và hình thành thế hệ nhà báo có khả năng thích ứng cao với tốc độ phát triển của công nghệ.
--------------
Thầy giáo NGUYỄN VĂN TUẤN, Tổ trưởng chuyên môn Tổ Lịch sử-Địa lý, Trường THCS Nguyễn Huệ (phường Hải Châu, TP Đà Nẵng):
Thường xuyên bồi dưỡng năng lực số cho giáo viên
Công nghệ có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giảng dạy, quản lý và phát triển năng lực nghề nghiệp của giáo viên. Thời gian qua, tôi đặc biệt chú trọng ứng dụng công nghệ mới và AI để đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng bài học, số hóa các loại sổ sách... Thông qua các nền tảng AI như: ChatGPT, Canva AI, Camtasia tôi có thể nhanh chóng xây dựng giáo án điện tử, video minh họa, câu hỏi trắc nghiệm, hoạt động học tập tương tác phù hợp với từng đối tượng học sinh. Trong hoạt động kiểm tra, đánh giá, tôi thường sử dụng các phần mềm: Google Form, Quizizz, Kahoot hoặc Azota để thiết kế bài kiểm tra trực tuyến, hỗ trợ chấm điểm tự động, thống kê kết quả... Ngoài ra còn sử dụng phần mềm Hezine để thiết kế sách điện tử tương tác cho các chủ đề Lịch sử và Địa lý. Sách được tích hợp video, bản đồ số, câu hỏi tương tác, giúp học sinh dễ dàng tiếp cận kiến thức dưới dạng trực quan, sinh động...
Để CĐS thực sự đi vào chiều sâu và mang lại hiệu quả bền vững trong giáo dục, theo tôi cần chú trọng một số giải pháp sau: Bồi dưỡng thường xuyên năng lực số cho giáo viên (như tổ chức các khóa tập huấn, hội thảo chuyên đề, tọa đàm về ứng dụng công nghệ và AI trong giảng dạy). Nội dung bồi dưỡng nên thiết thực, gắn với môn học và tình huống dạy học thực tế, giúp giáo viên có thể áp dụng vào bài giảng. Đầu tư hạ tầng và thiết bị số, bảo đảm hệ thống mạng ổn định, trang thiết bị giảng dạy hiện đại, đồng thời hướng dẫn học sinh kỹ năng sử dụng công nghệ an toàn, hiệu quả. Xây dựng kho học liệu số dùng chung cũng là một phương án phải tính đến. Các tổ chuyên môn nên chủ động xây dựng và chia sẻ ngân hàng bài giảng, học liệu số, câu hỏi trắc nghiệm, sản phẩm công nghệ để tạo động lực đổi mới sáng tạo cho đội ngũ giáo viên. Ngoài ra cần có cơ chế khuyến khích, tôn vinh những giáo viên, tổ chuyên môn có sản phẩm số sáng tạo, có tác động tích cực đến học sinh.
-------------
Cô giáo TRẦN THỊ THÙY LAN, giáo viên Trường THCS Phong An (phường Phong Thái, TP Huế):
Cần xây dựng quy trình bảo mật dữ liệu
CĐS trong giáo dục phổ thông là quá trình dài hơi, cần sự kiên trì, nỗ lực của cả người dạy và người học. Bởi thực tế hiện nay, việc CĐS trong hoạt động giảng dạy ở bậc phổ thông vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Trước hết là tâm lý ngại thay đổi, chậm cập nhật tiến bộ khoa học-công nghệ ở một bộ phận giáo viên. Hạ tầng thiếu đồng bộ, điều kiện cơ sở vật chất chênh lệch nhau ở các địa phương, vùng miền. Tài nguyên học liệu số ngày càng phát triển nhưng chất lượng không đồng nhất, gây lãng phí thời gian tìm kiếm đối với người học. Ngoài ra, việc bảo mật dữ liệu của giáo viên và học sinh trên môi trường số vẫn là mối lo và tiềm ẩn nhiều nguy cơ khôn lường.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động CĐS trong dạy học ở trường phổ thông, theo tôi, trước hết cần tập trung vào con người, phát triển năng lực sư phạm số (Digital pedagogy) cho giáo viên, trong đó giúp giáo viên sử dụng AI như một trợ lý đắc lực cho quá trình dạy học của mình. Từ đó giáo dục phát triển kỹ năng, năng lực số cho học sinh một cách đúng đắn, như năng lực tư duy phản biện, kỹ năng sàng lọc thông tin, kỹ năng giao tiếp văn minh trên môi trường số, kỹ năng sử dụng AI. Thứ hai, đồng bộ cơ sở dữ liệu phục vụ quá trình dạy-học của giáo viên và học sinh. Thứ ba, cần đầu tư phát triển cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ phục vụ việc CĐS trong dạy và học tại các cơ sở giáo dục. Thứ tư, phải tạo dựng hành lang pháp lý đủ mạnh, xây dựng các quy trình bảo mật dữ liệu chặt chẽ để bảo vệ dữ liệu cá nhân của học sinh và giáo viên được an toàn, nuôi dưỡng niềm tin trên môi trường số.
-----------------
Cô giáo CHU BÍCH HIỆP, Trường Tiểu học Tân Tiến (xã Tân Tiến, tỉnh Lạng Sơn):
Đầu tư hạ tầng, thiết bị công nghệ cho các trường miền núi
CĐS là cơ hội để giáo viên vùng cao học hỏi, sáng tạo và góp phần thu hẹp khoảng cách tri thức cho học trò nơi biên giới. Tuy nhiên, việc thực hiện CĐS trong dạy học ở các trường miền núi, vùng cao hiện còn nhiều khó khăn. Trước hết là thiếu thiết bị. Chẳng hạn như trường nơi tôi công tác cách trung tâm tỉnh khoảng 80km. Toàn trường chỉ có một phòng máy với 10 máy tính cho hơn 30 học sinh mỗi lớp, còn điểm trường phụ thì không có phòng máy. Các hoạt động chung phần lớn dựa vào máy tính cá nhân của giáo viên. Thứ hai, đường truyền internet yếu, nhiều khi học sinh không thể truy cập được nền tảng học trực tuyến, khiến việc gửi-nhận bài của giáo viên cũng bị gián đoạn. Bên cạnh đó, kỹ năng số của giáo viên và học sinh còn hạn chế. Giáo viên chưa được tập huấn bài bản, ít thời gian đầu tư cho học liệu số. Rất nhiều phụ huynh học sinh hạn chế về sử dụng công nghệ nên cũng khó hỗ trợ con trong việc học trực tuyến hoặc khai thác học liệu số.
Dù còn nhiều khó khăn như vậy nhưng đội ngũ cán bộ, giáo viên chúng tôi vẫn nỗ lực tự học, chia sẻ kinh nghiệm sử dụng công nghệ để đổi mới phương pháp dạy, hướng dẫn học sinh sử dụng các tài nguyên học tập miễn phí, tìm kiếm thông tin, luyện bài tập, kiểm tra hoặc tham gia trò chơi công nghệ số... Qua đó giúp các em dần làm quen với máy tính, điện thoại thông minh, rèn luyện kỹ năng...
Từ thực tế giảng dạy, tôi mong ngành giáo dục và xã hội quan tâm hơn đến việc đầu tư hạ tầng công nghệ cho các trường miền núi, đặc biệt là hệ thống internet ổn định, thiết bị dạy học như máy tính, ti vi, bảng tương tác cùng một số phần mềm miễn phí phục vụ giảng dạy như Chat GPT, Canva hay các phần mềm xây dựng video. Cần tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng số thực tế cho giáo viên, giúp thầy cô sử dụng linh hoạt, hiệu quả các phần mềm và công cụ dạy học trực tuyến. Nếu được quan tâm hỗ trợ thiết bị học tập thì các học sinh nghèo cũng sẽ có cơ hội tiếp cận công nghệ và học tập bình đẳng hơn.
NGỌC HÀ - VĂN TOÀN - PHẠM XUÂN