Cách đây gần hai tuần, bạn chia sẻ trên điện thoại với thái độ bực bội, rằng từ nay không nghe rapper hát nữa.
Hỏi ra mới biết, có tâm trạng đó là bởi cô vừa nghe đoạn rap của nam ca sĩ vốn là một hiện tượng của làng V-pop và từng “làm mưa làm gió” với các bản hit mà mình yêu thích, với nội dung: “Mấy đứa không ưa anh ngoài đời làm sao mà dám/ Anh hát chơi chơi hơn một kiếp của nó đi làm...”, rồi: “Fan thường kêu anh họ Lào/ Lào gì cũng tôn”.
Cô bức bối: "Nó rap mà như khinh mình, như chọc vào lòng tự trọng của mình và mọi người trong xã hội".
Ít ngày sau, tôi thấy Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy TP Hồ Chí Minh có công văn gửi các cơ quan quản lý liên quan và báo chí trên địa bàn về việc không mời các nghệ sĩ hát lời lệch chuẩn, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục và thẩm mỹ nghệ thuật tham gia biểu diễn, trong đó có các nghệ sĩ trẻ nổi tiếng của làng V-pop.
Tôi rất mừng vì cuối cùng thì cơ quan chức năng cũng đã có những động thái quyết liệt để ngăn chặn sự lệch chuẩn của một số nghệ sĩ thời công nghệ số. Bởi lâu nay, hiện tượng lệch chuẩn trong biểu diễn V-pop vốn không hiếm, nhưng lạ là chẳng thấy cơ quan và ngành chức năng lên tiếng “dọn rác”, “nhặt sạn”.
V-pop là từ viết tắt của Vietnamese Pop, hay còn gọi là nhạc pop Việt Nam. Dòng nhạc đại chúng này được phát triển theo xu hướng nhạc pop thế giới nhưng mang bản sắc văn hóa Việt.
V-pop bắt đầu hình thành rõ nét từ cuối thập niên 1990 và đầu 2000. Từ sự phát triển sôi động của thị trường băng đĩa và các cuộc thi âm nhạc như Sao Mai điểm hẹn, Làn sóng xanh, Vietnam Idol... đã tạo ra thế hệ ca sĩ đại chúng: Mỹ Tâm, Đan Trường, Lam Trường, Mỹ Linh, Hồng Nhung, Phương Thanh, Hồ Ngọc Hà...
Từ năm 2012, khi internet và mạng xã hội bùng nổ, V-pop bước vào thời kỳ hiện đại hóa, tạo ra bản sắc, đó là tinh thần Việt. Một bài hát V-pop hay thường vừa khiến người nghe trẻ thấy “hợp thời”, vừa khiến người lớn tuổi thấy “thấm tình người Việt”. Từ thời điểm này, V-pop không chỉ “học theo” mà bắt đầu “đối thoại” với thế giới. Với sự kết hợp cả nghệ thuật sân khấu, âm thanh, ánh sáng, trang phục và nghệ thuật biểu diễn thời thượng, V-pop đã mang đến cho người nghe nhạc sự mới mẻ, tiệm cận quốc tế. Đã xuất hiện ca sĩ, nhà sản xuất trẻ thành công, như: Sơn Tùng M-TP, Amee, Đen Vâu, Suboi, Binz, Tóc Tiên, Hoàng Dũng, Erik, Mono, Chillies...
    |
 |
V-pop giúp đời sống âm nhạc sôi động, nhiều màu sắc và nghệ thuật hơn. Ảnh: LÊ MINH
|
Tuy nhiên, từ khi V-pop chịu tác động mạnh của kỷ nguyên “streaming” và “viral”, từ khi sự thành bại của một bài hát bị quyết định bởi lượt “view”, lượt nghe, lượt chia sẻ thì V-pop dần xa rời nghệ thuật. Cạnh tranh khốc liệt đã nảy sinh ra những sản phẩm V-pop “mì ăn liền”, ca từ thiếu chiều sâu nghệ thuật, dễ dãi, thậm chí lệch chuẩn văn hóa.
Nhiều lúc cảm tưởng như công chúng, nhất là giới trẻ không nghe nhạc nữa mà chuyển sang xem nhạc, bình luận về phong cách nghệ sĩ. Không còn mấy ai chờ tiếng hát nâng lòng mình lên mà chỉ chờ xem nghệ sĩ đó nói gì, gây sốc ra sao.
Từ đó, không ít ca sĩ V-pop đang ở ngã ba đường. Một bên là thị trường, nơi “viral”, “view”, “trend” chi phối; còn bên kia là nghệ thuật, nơi giá trị văn hóa, đạo đức nghề nghiệp và thẩm mỹ cần được giữ gìn. Nơi ngã ba ấy, nhiều nghệ sĩ đã chọn chạy theo “viral” để rồi đánh mất linh hồn nghệ thuật âm nhạc. Họ hát những ca từ dung tục, phô trương vật chất, lệch chuẩn văn hóa nhưng được bao biện bằng những câu từ có “chất riêng”...
Âm nhạc vốn là một loại hình nghệ thuật của giai điệu, nhịp điệu và hòa âm. Đặc trưng của âm nhạc là giàu sức gợi, có thể chạm đến cảm xúc sâu kín nhất của con người. Âm nhạc có khả năng kết nối con người, phản chiếu đời sống xã hội và nội tâm cá nhân, đồng thời nuôi dưỡng cái đẹp, hướng con người tới những giá trị chân-thiện-mỹ.
Trong lịch sử, chúng ta đã có một nền âm nhạc rực rỡ. Từ trong chiến tranh, những khúc quân hành, những bản tình ca người lính đã nuôi dưỡng con người với lý tưởng cao đẹp và góp phần làm nên giá trị thời đại. Các ca khúc như: “Tình ca”, “Cô gái mở đường”... đã giúp con người vượt qua khó khăn và bom rơi, đạn nổ để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Chúng tôi thường tâm sự, khi đất nước còn nhiều gian khó, âm nhạc chính là nguồn sáng, là niềm tin, là cái đẹp để nhân lên sức mạnh Việt Nam. Những nghệ sĩ vang bóng một thời, những người thầy của chúng tôi thường nói, nghệ sĩ chân chính là người dám chịu trách nhiệm về ảnh hưởng của mình. Một câu nói, một hành vi lệch chuẩn, thậm chí một ca khúc bị hiểu sai, đều có thể làm lệch hướng người nghe. Các thầy dạy chúng tôi, trong hòa bình, rất cần những giai điệu trong trẻo, giúp giới trẻ nhận ra giá trị dân tộc, giá trị văn hóa Việt mà phấn đấu.
Nhưng thật buồn là khi thấy các bản nhạc trẻ rỗng ruột xuất hiện ngày càng nhiều trong ánh đèn và sân khấu rực rỡ. Không khó để bắt gặp những ca từ phản cảm, hình ảnh hời hợt, những thông điệp rời rạc hoặc thậm chí lệch chuẩn đạo đức... trong các bản hit. Tôi nói thật rằng, khi “chất cấm”, “lời tục”, hay “nổi loạn trống rỗng” trở thành mốt thì nghệ thuật không còn là tiếng nói của tâm hồn mà trở thành công cụ gây sốc. Đó không phải là sáng tạo mà là sự bào mòn dần nhân cách thẩm mỹ của công chúng.
Bạn hãy hình dung hiện tượng hàng nghìn bạn trẻ cùng hát theo ca từ đầy ẩn dụ tiêu cực, hoặc vô thức tôn vinh lối sống lệch chuẩn thì xã hội chúng ta sẽ đi về đâu?
Thực tế cho thấy, nhiều nghệ sĩ trẻ thành công quá sớm, bước vào danh vọng khi chưa kịp trưởng thành về nhân cách đã khiến cho cái tôi phình to theo độ hot, còn cái tôi nghề nghiệp lại teo nhỏ.
Nhìn rộng ra thế giới, sự phát triển của âm nhạc đại chúng luôn đi cùng quá trình chuẩn hóa đạo đức nghề nghiệp và định hướng thẩm mỹ cộng đồng. Ở Hàn Quốc, công nghiệp K-pop được quản lý chặt chẽ, không chỉ về bản quyền mà cả hình ảnh, lời nói, lối sống của người nghệ sĩ. Ở phương Tây, dù tự do sáng tạo được đề cao, nhưng nghệ sĩ vẫn bị tẩy chay nếu vượt quá giới hạn đạo đức xã hội. Điều đó cho thấy, tự do nghệ thuật không bao giờ là vô giới hạn mà nó chỉ thực sự có ý nghĩa khi gắn liền với trách nhiệm.
Để dẹp bỏ tình trạng “sạn”, “rác” trong âm nhạc và trong nghệ thuật biểu diễn, tôi cho rằng, cơ quan quản lý văn hóa cần tạo ra môi trường giúp nghệ sĩ trẻ phát triển tài năng, nhưng vẫn giữ được nhân cách nghề nghiệp. Các tổ chức nghề nghiệp như hội nhạc sĩ, hội nghệ sĩ biểu diễn cần xây dựng các quy định, tiêu chí để các nghệ sĩ bám vào đó phấn đấu. Những trường hợp lệch chuẩn phải xử lý kiên quyết. Bên cạnh đó, giới phê bình âm nhạc, báo chí và công chúng cần góp tiếng nói trung thực, dám khen đúng, chê đúng, để “lọc” lại thị hiếu xã hội. Bởi nếu công chúng vẫn tán thưởng ca từ dung tục, vẫn xem clip phản cảm hàng triệu lượt, thì đó không còn là lỗi của nghệ sĩ mà là sự xuống cấp của nền tảng văn hóa tiêu dùng.
Giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường cũng cần được đẩy mạnh. Khi học sinh được nghe, được hát, được phân tích những tác phẩm có giá trị nhân văn, các em sẽ tự hình thành “hệ miễn dịch” văn hóa. Ngược lại, nếu chỉ để các nền tảng mạng dẫn dắt thì sự hỗn loạn trong thẩm mỹ sẽ sớm trở thành khủng hoảng giá trị.
Lao động nghệ thuật đích thực thường mất thời gian và phải nuôi dưỡng tâm hồn dám sáng tạo một cách bền bỉ. Những giá trị đạo đức và thẩm mỹ trong tác phẩm sẽ làm nên linh hồn của âm nhạc. Khi nghệ sĩ biết sống đẹp, âm nhạc của họ sẽ tự nhiên đẹp. Khi người làm văn hóa biết giữ niềm tin vào con người thì nền âm nhạc ấy sẽ luôn có đường để đi.