Đất lạ hóa quê hương
Như những câu thơ trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên: Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét/ Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng/ Như xuân đến chim rừng lông trở biếc/ Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương. Tình yêu của ông Lại Văn Năm và bà Lưu Thị Tấm cũng nảy nở như vậy tại mảnh đất Điện Biên lịch sử. Thực ra, câu chuyện của ông bà cũng không quá đặc biệt, bởi sau Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, đến năm 1958, khi một số đơn vị thuộc Sư đoàn 316 được lệnh quay trở lại tái thiết Điện Biên, làm nòng cốt xây dựng các nông trường thì đã có nhiều mối tình bộ đội-công nhân nên duyên. Họ cùng lập nên những làng xóm đầu tiên ở thung lũng lòng chảo khi xưa vốn là tập đoàn cứ điểm lớn nhất Đông Dương của thực dân Pháp. Đến nay, 70 năm sau Chiến thắng Điện Biên Phủ "chấn động địa cầu", khi phần lớn các nhân chứng trực tiếp đã về thế giới bên kia thì ông bà chính là những chứng nhân lịch sử ít ỏi còn lại để kể những câu chuyện chiến đấu hào hùng của quân và dân ta năm xưa cho thế hệ hôm nay.
    |
 |
Ông Lại Văn Năm và bà Lưu Thị Tấm bên những kỷ vật ngày cưới năm 1962. Ảnh: THÀNH DUY |
Ông Lại Văn Năm sinh năm 1932, tại xã Tam Sơn, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Năm 1952, ông nhập ngũ vào Trung đoàn 177, huấn luyện tại Phú Thọ, được cử đi học kỹ thuật công binh 6 tháng rồi được điều về Tiểu đoàn Công binh 34 của Sư đoàn 316 và lên Điện Biên khi Chiến dịch Điện Biên Phủ đang diễn ra ác liệt. Ông tham gia đợt 2 và đợt 3 của chiến dịch lịch sử này.
Sau Chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị của ông Năm được lệnh hành quân về đóng ở Trung Hà, giáp ranh giữa Sơn Tây và Phú Thọ. Nhưng cơ duyên với mảnh đất Điện Biên của ông Năm chưa hết. Đơn vị ông được lệnh trở lại Điện Biên để tiêu diệt phỉ, bảo vệ nhân dân và khắc phục hậu quả do chiến tranh để lại. Trở lại nơi đây, đơn vị của ông đóng quân ngay dưới chân đồi A1. Điều kiện cuộc sống khó khăn nên đơn vị vừa triển khai thực hiện nhiệm vụ, vừa vỡ đất trồng bí đỏ và các loại nông sản để phục vụ bữa ăn hằng ngày.
Năm 1958, khi bom mìn đã được dò gỡ tạm ổn thì trên có chủ trương thành lập Nông trường Điện Biên. Đơn vị của ông Năm lại chuyển sang giai đoạn đánh gốc, bốc trà, san lấp, tạo mặt bằng để trồng trọt. Những anh bộ đội cầm súng giờ đây chuyển sang cầm cuốc, là nòng cốt trong chăn nuôi, trồng trọt. Ông Năm được phân về bộ phận chăn nuôi.
Bà Lưu Thị Tấm đến với Điện Biên theo một cách khác. Một sự tình cờ gắn kết họ, đó là quê bà cũng ở huyện Cẩm Khê. Bà có người chú ở Trung đoàn 48 là Lưu Đình Bản, làm Đại đội trưởng. Sau khi Điện Biên được giải phóng, ông Bản bén duyên với mảnh đất này. Ông Bản lấy vợ là người dân tộc Thái và gắn bó với Điện Biên. Và rồi, bà Tấm theo chú lên đây làm ăn, xây dựng kinh tế.
Tình yêu của ông Năm và bà Tấm nảy nở trên chính mảnh đất Điện Biên lịch sử. Đám cưới tập thể của ông bà cùng hai đôi nữa được tổ chức tại nông trường theo nếp sống mới. Chi bộ đóng tặng ông bà một chiếc bàn bằng gỗ tạp. Công đoàn tặng một chiếc phích Rạng Đông rất đẹp. Còn hợp tác xã gốm sứ thì tặng vợ chồng trẻ một chiếc chum đựng nước. Điện Biên từ đất lạ đã thành quê hương thứ hai của ông bà từ đó.
Bền chặt mối tình Điện Biên
Thời gian rất dài nhưng nhìn lại cũng rất ngắn. Bộ phận chăn nuôi của ông Năm ngày trước nay thuộc xã Thanh Xương, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Khu vực này gần sân bay Hồng Cúm, ở phía Tây Điện Biên Phủ, khi xưa ông vẫn thường dò dọc sông Nậm Rốm để nắm tình hình địch. Làm việc tại Nông trường Điện Biên, ông bà được cấp nửa gian nhà ở trong khu tập thể thuộc khu vực nông trường cà phê. Khu nhà ở công-nông năm xưa nay vẫn còn đó, đều tăm tắp, đường sá sạch sẽ, gọn gàng. Tên gọi cũng vẫn là khu Chăn nuôi 2 như thuở nào. Có mặt tại đây, chúng tôi cảm giác như sờ được vào những gì thuộc về lịch sử, đặc biệt là khi được tận tay chạm vào những kỷ vật ngày cưới của ông bà, đơn sơ nhưng sau 62 năm vẫn được giữ gìn cẩn thận.
Như để chứng thực cho câu chuyện vừa kể, ông Năm và bà Tấm mời chúng tôi ra phía căn nhà cũ, chỉ cho tôi chiếc bàn chi bộ đóng tặng, lấy ra chiếc phích năm xưa, vỏ vẫn còn nguyên nhưng lõi thì đã thay đôi ba lần, hiện vẫn được dùng để trữ nước nóng. Ở góc ngôi nhà là chiếc chum sành đứng lặng lẽ như chứa đựng hơn 60 năm lịch sử. Đặc biệt hơn, ông Năm còn khoe với chúng tôi chiếc vỏ đạn pháo. Chiếc vỏ đạn này đã mòn vẹt đi ở khoảng thân giữa bởi được ông sử dụng làm đe để đập cho lưỡi cuốc, lưỡi xẻng trở nên sắc bén khi làm đất nông trường.
Hơn 20 năm gắn bó với Nông trường Điện Biên, đến năm 1982, ông Năm nghỉ hưu trên cương vị Tổ trưởng Tổ sản xuất. Bà Tấm cũng nghỉ việc, cùng ông chăm lo gia đình nhỏ. Ở tuổi 92, bà vẫn có trí nhớ tuyệt vời, rành rọt nhắc đến từng sự kiện gắn bó với mảnh đất này. Năm rồi, các con về xây cho ông bà căn nhà rộng rãi, khang trang, vừa để bố mẹ có chỗ ở đàng hoàng, vừa là chỗ để tụ họp anh em họ hàng mỗi khi nhà có việc. Tuy đã có ngôi nhà mới nhưng ngôi nhà năm xưa của ông bà vẫn được giữ lại trong khuôn viên như một kỷ vật đặc biệt của gia đình.
Điện Biên, “điểm hẹn” lịch sử giữa quân Pháp và Quân đội nhân dân Việt Nam. Và Điện Biên cũng là điểm hẹn của những cuộc đời. Họ đã đến và ở lại, cùng nhau xây dựng hạnh phúc riêng trong những cống hiến chung; cùng chung tay kiến tạo, đặt những nền móng đầu tiên cho một Điện Biên hiện đại của hôm nay và mai sau.
NGUYỄN XUÂN THỦY