Tây Nguyên cũng thế. Một Tây Nguyên đang phát triển, đang hội nhập, đang mở ra với rất nhiều đổi thay, có những đổi thay tới chóng mặt, nhưng cũng đồng nghĩa với việc còn rất nhiều điều giằng xé giữa hiện tại và quá khứ, giữa bề nổi và chiều sâu, giữa tưng bừng và khắc khoải, giữa cái thấy và cái nghĩ, giữa trong và ngoài...

Tây Nguyên đã khác xưa rất nhiều. Sự phát triển không bù đủ cho sự mất đi. Văn hóa Tây Nguyên là văn hóa rừng, làng Tây Nguyên luôn gắn với rừng. Giờ rừng không còn, làng chơ hơ, cô độc và trống vắng, buồn bã và xộc xệch. Giờ làng không phải là cái làng từ xưa với tràn đầy ký ức, với lớp lớp trầm tích văn hóa, với dày đặc kỷ niệm, với sự hòa giao, nương tựa con người với tự nhiên nữa. Nó chỉ là nơi tạm trú che mưa nắng nhất thời, ấy là khi xuống những ngôi làng định cư chơ vơ trên đồi, giữa núi trọc... tôi cảm thấy thế.

leftcenterrightdel
Chiều về trên hồ Lắk, Đắk Lắk. Ảnh: MINH PHƯƠNG

Từng có những ngôi làng định cư, nhà xây rất nhỏ, lợp tôn, nền đất... rất không hợp với cách sống, cách sinh hoạt, truyền thống ăn ở từ xưa của người Tây Nguyên. Cũng như thế, từng có phong trào “xóa khố” ngay từ hồi còn bao cấp, cán bộ, công nhân viên mỗi người một năm chỉ có 4 mét vải theo phiếu. 4 mét ghi trên phiếu, nhưng chưa chắc đã mua được 4 mét vải. Và giờ, chúng ta lại đang tuyên truyền vận động người dân có khố, coi khố là bản sắc, lễ hội Tây Nguyên mà đàn ông không đóng khố thì nó không còn là lễ hội. Nhà sàn, váy, khố... là một phần của văn hóa Tây Nguyên. Mà văn hóa phải là sự tích tụ đời này sang đời khác, thế hệ này sang thế hệ khác... Nó tự chắt lọc, đào thải, cô đặc và tinh túy.

Tôi học ở mảnh đất Tây Nguyên bao điều mà trước đấy mình chưa biết, hoặc chỉ nghe một chiều, nghe bằng con mắt khác, con mắt ở ngoài vào, ở trên xuống. Ví dụ, nghe nói về nhà mồ, về nối dây, về tục săn đầu người, về khi sinh nếu mẹ chết thì chôn theo con... là lạc hậu, thậm chí là man rợ, nhưng té ra đi sâu tìm hiểu thì nó vốn hết sức có lý, hết sức nhân bản. Tất nhiên, giờ không còn tục này, dẫu vẫn còn rất nhiều nơi như mái ấm Giuse của ông Đinh Minh Nhật (ở huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai), luôn nuôi hơn 100 đứa trẻ mồ côi, trong đó nhiều đứa ông phải “xin” lại từ cái tục mẹ chết chôn theo con ấy...

Nếu văn hóa người Việt là văn hóa đồng bằng với văn minh lúa nước, liên quan đến sông, biển thì Tây Nguyên là văn hóa rừng, liên quan mật thiết tới rừng, văn minh nương rẫy. Không chỉ mật thiết, nó là sống còn. Giờ rừng hết thì bà con Tây Nguyên “đành” thích nghi với văn hóa không rừng, một thứ văn hóa mới, rất mới mà tôi cũng chưa hình dung ra.

Như đã nói, người Kinh gắn với nền văn minh lúa nước, họ xuất hiện ở Tây Nguyên ồ ạt vào 3 thời kỳ chính: Một là thời chính quyền Ngô Đình Diệm đưa dân đi lập các đồn điền, các khu trù mật, có một số người Bắc di cư, còn lại là dân miền Trung. Hai là thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, song song với dân lên lập đồn điền, khu trù mật là các cán bộ người Kinh xuống "3 cùng" với nhân dân. Ba là phong trào kinh tế mới sau ngày thống nhất đất nước. Đây là thời kỳ đông nhất, ồ ạt nhất, nó khiến cơ cấu xã hội Tây Nguyên có rất nhiều thay đổi. Và có thể nói, số dân kinh tế mới vào Tây Nguyên sau giải phóng tác động dữ dội nhất đến văn hóa bản địa Tây Nguyên.

Văn hóa bản địa Tây Nguyên vừa bảo thủ vừa rất nhanh nhạy hướng ngoại, nhất là trong lớp trẻ. Đấy là quy luật tự nhiên của mọi nền văn hóa, nhưng trong từng trường hợp cụ thể, sự tác động của con người cũng giúp nó rất nhanh biến chuyển theo hướng hòa nhập và thu nhận cái ngoài mình. Một nền văn hóa bản lĩnh là nền văn hóa biết tiếp thu cái gì tốt, phù hợp, tiến bộ và nhân văn, và biết bảo thủ để giữ lại cái gì tốt đẹp của mình. Sự bảo thủ của văn hóa Tây Nguyên không đủ để chống lại sự xâm nhập, bên cạnh đó là các tác động tiêu cực từ những chủ trương, chính sách có lúc chưa phù hợp.

leftcenterrightdel

 Thiếu nữ Tây Nguyên trong mùa hoa dã quỳ nở. Ảnh: MINH PHƯƠNG

Người Kinh lên Tây Nguyên đã mang theo văn minh của họ, nhất là những kiến thức thông thường trong đời sống, giúp người Tây Nguyên bản địa làm quen với đời sống hiện đại. Tôi đã chứng kiến cái cảnh mỗi làng người Tây Nguyên đều có một hoặc vài gia đình người Kinh ở lẫn để buôn bán. Họ rất vô tình, đã trở thành những người phổ biến kiến thức, từ chuyện nuôi con nhỏ, sinh đẻ có kế hoạch, vệ sinh, nấu ăn cho đến cách tính toán làm giàu, biết tích lũy chứ không làm gì ăn nấy như lâu nay... Nhưng đồng thời, họ cũng vô thức tuyên truyền một nền văn hóa khác cho bà con buôn làng. Từ chuyện chỉ cần đánh dấu dưới gốc cây có tổ ong mình thấy đầu tiên thì tức là của mình đến việc thả voi, trâu, bò trong rừng không cần giữ, làm rẫy cách nhà ở hàng buổi đi bộ không cần trông... bây giờ những điều ấy đã hoàn toàn biến mất.

Chúng ta đã đầu tư rất nhiều vào Tây Nguyên. Có nhiều thứ đầu tư đúng và trúng, nhưng cũng có những sự đầu tư lãng phí, chưa kể nó đụng chạm đến văn hóa. Rất nhiều chủ trương có ý tưởng tốt, có trách nhiệm, nhưng chỉ vì chúng ta chưa hiểu hết phong tục tập quán, những phong cách sống, những sâu xa văn hóa... nên dẫn đến những sai lầm. Chúng ta đã làm thay trong khi lẽ ra chúng ta chỉ là người khích lệ. Không thể làm thay văn hóa cũng như không thể dùng văn hóa này thay thế văn hóa khác, bởi văn hóa gắn với những con người và vùng đất cụ thể.

Xã hội chúng ta đang có rất nhiều biến động. Những biến động của quy luật khi mà văn hóa phải chống chọi với văn minh, của sự phát triển và bảo tồn. Nhưng cũng có những biến động rất khốc liệt do chính chúng ta gây ra từ những chủ trương cụ thể, mà phá rừng và làm thủy điện là ví dụ. Phá rừng chính là cách tự “ăn thịt” mình.

Người Tây Nguyên lâu nay sống chan hòa với rừng, nương tựa vào rừng, thân thiện với nhau mà sống. Tưởng là họ du canh du cư sẽ phá rừng rất ghê, té ra không phải. Họ có những luật tục rất chặt chẽ và cụ thể, có những hình phạt rất nghiêm khắc nếu ai đó phá hoại rừng một cách bừa bãi. Cao su là cây công nghiệp, có thể nó tạo sự đổi đời ngay lập tức trong vòng mấy mươi năm; còn rừng, nó là sự kết tinh của đời sống dòng họ hàng trăm, hàng ngàn năm; nó có đời sống, có văn hóa của nó-văn hóa rừng.

Những con người lấy rừng làm bầu bạn, lấy rừng làm lẽ sống đã sinh ra một thứ văn hóa rừng, họ tồn tại an nhiên với rừng và ngược lại, rừng tốt tươi, sinh sôi hài hòa với con người, bảo vệ nhau, nâng đỡ nhau và cùng tôn nhau trong một đời sống tưởng hoang sơ nhưng đậm triết lý nhân văn và duy mỹ. Cũng y hệt như người Kinh với văn minh lúa nước. Và thực tế đã chứng minh, suốt bao nhiêu năm chiến tranh, bom đạn thế, cán bộ, bộ đội và người dân đã sống với rừng, được rừng che chở, rừng cung cấp nguồn để sống và chiến đấu. Thế mà rừng cứ bạt ngàn xanh. Giờ, cả nước vì Tây Nguyên, nhưng cái để làm nên thương hiệu Tây Nguyên, là rừng, thì đang dần hết.

Tất nhiên, những thách thức là có và cũng không nhỏ, nhưng nếu quyết tâm, kèm với sự hiểu biết-rất cần sự hiểu biết vì chúng ta đã từng áp đặt sự không hiểu biết vào văn hóa Tây Nguyên; và quan trọng nữa, có cái tâm thật sự vì văn hóa, vì sự phát triển, tôi tin Tây Nguyên sẽ vẫn là một Tây Nguyên bản sắc trong lòng nước Việt thống nhất và đa dạng.

VĂN CÔNG HÙNG