Nói về Bộ đội Cụ Hồ là nói về những phẩm chất được kết tinh qua hàng chục năm chiến tranh và hòa bình: Trung thành vô hạn với Đảng, gắn bó máu thịt với nhân dân. Ở mỗi người lính Cụ Hồ luôn có những phẩm chất đáng quý, đó là giản dị, khiêm nhường, kiên cường, kỷ luật... Trong hệ giá trị ấy, sẵn sàng cống hiến, hy sinh là trục xoay bền vững nhất. Nó là chất kim cương tạo nên sắc bền của truyền thống, là “tinh chất” của lý tưởng Bộ đội Cụ Hồ: Sống vì Tổ quốc, vì nhân dân và vì hòa bình.

Những cống hiến, hy sinh là gì? Vì sao giá trị này lại trở thành bản lĩnh văn hóa của Quân đội ta? Và trong thời bình, điều ấy được biểu hiện như thế nào? Đó là những câu hỏi mà tôi xin làm rõ bằng chiều sâu của văn hóa, bằng những câu chuyện đời sống và bằng cả cảm xúc lắng đọng từ những trái tim đang khoác áo lính.

leftcenterrightdel

leftcenterrightdel
Cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn 270 (Quân khu 5) thực hiện "Chiến dịch Quang Trung", giúp nhân dân xã Hòa Xuân, tỉnh Đắk Lắk khắc phục hậu quả mưa lũ và xây nhà mới. Ảnh: PHẠM DUẬT

Trước hết phải hiểu, cống hiến không chỉ là dâng hiến sức lực hay trí tuệ. Với người lính, cống hiến là sự tự nguyện đặt Tổ quốc lên trên bản thân, là sẵn sàng gác lại những điều bình dị nhất của cuộc đời, từ bữa cơm gia đình, giấc ngủ bình yên, tiếng cười con trẻ... để giữ một không gian bình yên cho đất nước.

Hy sinh không chỉ là hy sinh tính mạng, dù đó là biểu hiện cao nhất. Hy sinh còn nằm trong từng việc tưởng nhỏ: Dành phần khó cho mình, nhường thuận lợi cho đồng đội; hy sinh thời gian riêng để hoàn thành nhiệm vụ chung; hy sinh hưởng thụ để sống giản dị, liêm khiết; hy sinh danh lợi cá nhân để giữ kỷ luật Quân đội.

Cống hiến tạo nên sự bền bỉ. Hy sinh tạo nên chiều sâu. Cống hiến là nỗ lực hướng về phía trước. Hy sinh là những từ bỏ ở phía sau. Khi hai điều ấy gặp nhau, ta có một phẩm chất chỉ có thể gọi bằng đúng cái tên mà nhân dân dành tặng: Bộ đội Cụ Hồ.

Sự cống hiến, hy sinh ấy còn được thể hiện trong mối quan hệ với Đảng, vốn là nền tảng hình thành lý tưởng cống hiến. Từ những ngày đầu thành lập, Quân đội nhân dân Việt Nam đã được mang bản chất giai cấp công nhân và mang trong mình sứ mệnh của Đảng. Lý tưởng chiến đấu, nguyên tắc phục vụ, tinh thần “vì nhân dân mà chiến đấu” của Quân đội được bắt nguồn từ bản chất ấy.

Đảng trao cho Quân đội lý tưởng, phương hướng, trao niềm tin và nhiệm vụ. Người lính sẵn sàng hy sinh vì đặt niềm tin vào con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Sức mạnh tinh thần ấy được hun đúc trong những bài học đầu tiên: Quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; ngoài lợi ích của nhân dân, Quân đội không có lợi ích nào khác.

Thử đặt câu hỏi, nếu thiếu nền tảng chính trị, tư tưởng của Đảng, liệu Quân đội ta có được phẩm chất cống hiến, hy sinh như hôm nay chúng ta đang tự hào? Tôi xin trả lời ngay rằng sẽ không bao giờ có được điều đó. Nhờ có Đảng, phẩm chất cống hiến, hy sinh đã trở thành bản lĩnh, ăn sâu bám rễ và thành hệ thống, thành truyền thống xuyên suốt qua các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta trong suốt 81 năm qua.

Khi nghiên cứu, tôi nhận ra rằng, nếu như Đảng trang bị bản lĩnh, niềm tin thì nhân dân là điều kiện cốt yếu để đưa những giá trị cống hiến, hy sinh của Quân đội thành văn hóa. Bởi nhân dân là nơi người lính bước ra và nhân dân cũng là nơi người lính trở về. Nhân dân là nơi bao bọc, là điểm tựa để Quân đội hoàn thành nhiệm vụ. Và cũng vì nhân dân mà Quân đội nêu cao tinh thần chiến đấu, phục vụ. 

Thế nên, từ khi ra đời đến nay, trong mọi bước đường, trong bất luận hoàn cảnh nào, Quân đội luôn đứng về phía dân. Họ giúp dân dựng nhà, mở đường, chống lũ, cứu hộ - cứu nạn, bảo vệ biên cương, giữ đảo xa... Đến nay, những việc ấy đã trở thành thường ngày và niềm tin được liên tục bồi đắp, trở thành tài sản thiêng liêng nhất trong mối quan hệ quân dân cá nước. Có thể khẳng định, sẵn sàng cống hiến cho nhân dân, sẵn sàng hy sinh vì nhân dân đã góp phần hình thành giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ cao đẹp.

Những ngày mưa lũ vừa qua ở các tỉnh Nam Trung Bộ là một minh chứng rõ nhất. Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội dầm mình trong nước lạnh, môi tím tái, tay run lên vì gió buốt nhưng vẫn bế dân qua dòng nước xoáy, vẫn dựng lán cứu hộ giữa đêm là biểu hiện sống động, cao đẹp nhất của tinh thần cống hiến. Họ tự nguyện bước về phía gian khó, là cống hiến cả sức lực lẫn trái tim. Đối với mỗi người lính Cụ Hồ, hy sinh không chỉ ngoài mặt trận đối mặt với kẻ thù trong tiếng bom đạn gầm rú mà nằm trong những đêm trắng giữa tiếng gió rít, trong tấm áo lính thấm mưa, trong từng đôi tay chai sần cứu người.

Trở lại mấy năm trước, trong những ngày đại dịch Covid-19 căng thẳng, khi mọi người tìm cách ở yên trong nhà thì người lính lại tiến vào tâm dịch, bước ra biên giới, ra chốt gác giữa rừng sâu... Họ ngủ trong lều tạm, ăn cơm nắm, thay phiên trực suốt đêm để giữ an toàn cho cộng đồng. Khi dịch vào sâu nội địa, người lính lại xung phong đi đầu. Họ làm tất cả mọi việc để giữ gìn tính mạng nhân dân.

Nhưng tinh thần cống hiến, hy sinh của Bộ đội Cụ Hồ còn được thể hiện trong nghiên cứu khoa học; trong nghiên cứu, sản xuất trang bị, phương tiện, vũ khí, khí tài, hiện đại hóa Quân đội. Khi Việt Nam cử lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, những chiến sĩ "mũ nồi xanh" đã mang theo phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ đến những vùng đất xa xôi đầy xung đột. Họ vừa là bác sĩ, vừa là kỹ sư, vừa là người bạn của nhân dân bản địa. Nhiều người đối diện hiểm nguy trong từng cung đường, từng bệnh viện dã chiến.

Thời bình không có tiếng súng, nhưng không ít thử thách mới. Chủ nghĩa cá nhân len lỏi. Thị trường mở ra những hấp lực vật chất. Mạng xã hội tạo ra những biến dạng của giá trị. Nhiều người trẻ bị cuốn vào vòng xoáy hưởng thụ mà quên đi trách nhiệm. Trong bối cảnh ấy, tinh thần cống hiến, hy sinh của Bộ đội Cụ Hồ trở thành điểm tựa để gìn giữ bản sắc dân tộc, để xây dựng một “văn hóa cống hiến” rộng lớn hơn trong xã hội. Người lính hôm nay không chỉ giữ biên cương mà còn giữ chuẩn mực nhân cách, giữ đạo lý “vì dân mà phục vụ”. Tinh thần ấy chính là liều thuốc giải độc mạnh mẽ cho chủ nghĩa cá nhân và thói quen sống dễ dãi.

Tôi cho rằng, điều đáng quý nhất là tinh thần cống hiến, hy sinh của Bộ đội Cụ Hồ không chỉ lan tỏa trong Quân đội mà đã lan ra mạnh mẽ trong cộng đồng. Khi bộ đội làm đường cho dân, người dân học được cách nghĩ rộng hơn. Khi bộ đội dầm mình trong lũ, thanh niên hiểu rằng sống là để cho đi. Khi bộ đội lặng lẽ hiến sức, hiến tài, xã hội nhìn thấy một hình mẫu đẹp và tự soi lại chính mình.

Thế nên tôi cho rằng, văn hóa Bộ đội Cụ Hồ đã trở thành một phần cốt lõi của văn hóa Việt Nam thời hiện đại, qua đó tạo ra động lực để mọi người trong xã hội chúng ta sống có trách nhiệm hơn, sống tử tế hơn và sống vì cộng đồng nhiều hơn bằng những việc làm mang giá trị nhân văn.

Sẵn sàng cống hiến, hy sinh đã trở thành lẽ sống của người lính và được trao truyền qua nhiều thế hệ, là nhịp đập của trái tim hướng về Tổ quốc, là hơi thở của truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày nay, ngọn lửa ấy vẫn đang cháy trong từng cán bộ, chiến sĩ; cháy trong những bước chân giữa rừng mưa, trong những đêm chốt gác biên thùy, trong tiếng máy phòng thí nghiệm, trong lời ca của những đoàn nghệ sĩ Quân đội đến biểu diễn ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo...

Người lính chọn nơi gian khó nhất bởi nơi đó cần họ nhất. Và chính sự lựa chọn ấy làm nên vẻ đẹp bất tử của Bộ đội Cụ Hồ: Sống để cống hiến; sống để hy sinh cho điều lớn hơn bản thân; sống, làm việc, thực hiện nhiệm vụ để nhân dân bình yên... Tôi nghĩ, đây là hình mẫu không bao giờ cũ, là ngọn lửa bền bỉ và cũng là lời nhắc nhở mỗi chúng ta về trách nhiệm với đất nước, với cộng đồng, với chính cuộc sống của mình.

Đại tá, TS PHẠM NGUYỄN NGỌC ANH