Xây dựng thành phố học tập là điều mới mẻ ở Việt Nam, nhưng trên thế giới, vào những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, người ta đã thấy có những thành phố học tập ở Anh, Đức và Canada.

Sau đó, những quốc gia thuộc khối Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cũng như ở một số nước Bắc Á đã triển khai nhanh chóng chương trình xây dựng thành phố học tập như một chiến lược phát triển xã hội học tập.

Những quốc gia hưởng ứng cuộc vận động xây dựng thành phố học tập do UNESCO đề xướng đều là những quốc gia đã hoàn thành cơ bản kế hoạch đô thị hóa. Trong những năm đầu của thế kỷ 21, 60% cư dân trong khối OECD đã sống ở những đô thị lớn.

Theo một tài liệu thống kê, năm 2008, lần đầu tiên dân số sống ở các thị xã và thành phố chiếm trên 50% dân số toàn cầu. Tại thời điểm đó, nông thôn ở nhiều nước đã ngừng tăng dân số. Do tốc độ đô thị hóa rất nhanh nên người ta dự báo đến năm 2030, dân số trong các đô thị trên toàn cầu sẽ vượt ngưỡng 5 tỷ người.

Sở dĩ UNESCO thúc đẩy các nước xây dựng thành phố học tập bởi những lý do sau: Thành phố ấy có lợi thế trong việc tạo ra không gian chủ đạo cho việc phát triển dựa vào các giá trị nhân văn và xã hội, tạo ra các cơ hội và điều kiện học tập suốt đời cho người dân thuận lợi hơn nhiều so với nông thôn; tạo ra nhiều việc làm và thu nhập tốt hơn so với mức thu nhập của nông dân và lao động vùng thôn quê.

Với sự quản trị tốt, thành phố ấy có thể thực hiện được những chương trình giáo dục, y tế và các dịch vụ khác có hiệu quả hơn so với nơi mật độ dân số thấp, cư dân thưa thớt. Trong thành phố ấy, khoảng cách của người dân với các loại dịch vụ (có cả dịch vụ giáo dục) thường ngắn hơn, việc đi lại thuận lợi hơn những vùng sản xuất nông nghiệp.

Khi thành phố học tập bước vào giai đoạn phát triển, nó sẽ tạo ra những điều kiện để những vùng nông thôn bao quanh nó đẩy mạnh quá trình đô thị hóa, xây dựng thành khu dân cư hiện đại, trở thành những đô thị mới văn minh.

Cho đến nay, chưa có một định nghĩa chính thức về “thành phố học tập”, song trong tư duy của mọi người, thành phố học tập là mô hình thu nhỏ của xã hội học tập tại một quốc gia xác định. Quan niệm ấy hàm ý rằng, trong thành phố học tập, hệ thống các thiết chế giáo dục đủ để phục vụ việc học tập suốt đời cho toàn thể dân cư trong thành phố là điều kiện cần.

Mọi công dân trong thành phố đều thực hiện nghĩa vụ học tập suốt đời, có trách nhiệm hỗ trợ, giúp đỡ việc học tập và chia sẻ tri thức cho mọi người xung quanh để cùng nhau học tập vì sự phát triển của xã hội là điều kiện đủ.

Thành phố học tập được xây dựng với nhiều mục đích. Trước hết là sẽ tạo điều kiện cho mọi công dân trong thành phố đều tham gia học từ bậc học phổ thông đến đại học. Việc học tập suốt đời đòi hỏi ai cũng phải học tập, không phân biệt lứa tuổi, giới tính, trình độ học vấn, cương vị xã hội, thành phần dân tộc... Thực hiện việc học tập trong từng gia đình, trong từng cộng đồng dưới mọi hình thức học tập chính quy, không chính quy (không chính thức).

Thứ hai, với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các doanh nghiệp, nhà máy, trang trại nông nghiệp, trong các đơn vị quốc phòng, an ninh thì ngoài các khóa học do nhà nước hay đoàn thể mở ra, sẽ học tại nơi làm việc để phục vụ công việc.

Thứ ba, mở rộng việc sử dụng các công nghệ học tập, các thiết bị thông minh để học trực tuyến hoặc học kết hợp trực tiếp với trực tuyến, thực hiện học mọi lúc, mọi nơi, lấy tự học làm cốt.

Thứ tư, nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập để bảo đảm năng suất lao động cao, sản phẩm có hàm lượng trí tuệ hiện đại, học gắn với hành, bảo đảm thực học, thực nghiệp với tinh thần kiến tạo, khởi nghiệp tốt.

Thứ năm, xây dựng văn hóa học tập theo tinh thần: Học để làm tốt công việc được giao; học để sáng tạo ra những sản phẩm mới; học để luôn luôn dẫn đầu trong công việc, đi nhanh, đi trước trong sự nghiệp; học để thích ứng với thế giới luôn thay đổi, biến động không ngừng; học để tạo ra sự khác biệt.

leftcenterrightdel
Lễ hội Đường sách năm 2024 tại TP Hồ Chí Minh thu hút đông đảo người dân tham gia. Ảnh: HÙNG KHOA 

Trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng thành phố học tập của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đang nhằm vào đào tạo công dân học tập. Đó là những công dân có những năng lực cốt lõi do thế kỷ 21 đòi hỏi, có những kỹ năng cơ bản và những phẩm chất mong muốn để hiện thực hóa các năng lực cốt lõi vào cuộc sống.

Để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, công dân học tập trong giai đoạn 2025-2030 nhất thiết phải là công dân số, có một số kỹ năng số như kỹ năng học tập trên mạng, kỹ năng thực hiện luật lệ mạng, kỹ năng bảo vệ và làm theo văn hóa mạng. Bên cạnh đó, công dân học tập phải có lối sống xanh, tư duy xanh để bảo vệ môi trường thiên nhiên phát triển bền vững.

Hiện tại, toàn cầu hóa đang lôi cuốn các quốc gia vào dòng chảy của nó. Do vậy, Nhà nước cần khuyến khích công dân học tập cố gắng phấn đấu để trở thành công dân toàn cầu. Yêu cầu tối thiểu đối với công dân toàn cầu là phải có những kiến thức về văn hóa của nhiều quốc gia khác, có ý thức tôn trọng sự khác biệt, chấp nhận và tôn trọng sự đa dạng, tôn trọng văn hóa của người khác. Không có rào cản về ngôn ngữ; có năng lực tìm kiếm việc làm ở nước ngoài...

Trên thế giới, những thành phố học tập xuất hiện sớm nhất cần kể đến là thành phố Kakegawa của Nhật Bản (năm 1979); tiếp theo là Liverpool của Anh (năm 1996) và Vancouver của Canada (năm 2006). Theo nghiên cứu của Candy (năm 2003), vào năm 2001, châu Âu đã có hơn 80 thành phố học tập. Đến tháng 11-2010, theo số liệu của Hiệp hội Quốc tế các thành phố học tập, thế giới đã có 422 thành phố học tập của 36 quốc gia. Đến nay, số thành phố học tập đã đạt mốc hơn 1.000.

Còn ở Việt Nam, tính đến giữa năm 2024, cả nước ta có 5 thành phố được gia nhập Mạng lưới “Thành phố học tập toàn cầu” của UNESCO, đó là: TP Vinh (Nghệ An), TP Sa Đéc (Đồng Tháp), TP Cao Lãnh (Đồng Tháp), TP Sơn La (Sơn La) và TP Hồ Chí Minh. Ngoài ra, một số thành phố khác cũng đang chuẩn bị hồ sơ để tham gia mạng lưới này như: Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Đà Lạt, Vũng Tàu...

Thời gian qua, các thành phố nói trên đều có sự quan tâm đầu tư đến những lĩnh vực hoạt động theo các tiêu chí do UNESCO đưa ra, đặc biệt là vấn đề học tập của trẻ em và người lớn để có đủ điều kiện tham gia vào hệ thống thành phố học tập toàn cầu trên thế giới. Cụ thể là đầu tư cho giáo dục trong thành phố: Bảo đảm cơ sở vật chất-kỹ thuật đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục tiểu học và THCS cho trẻ em; giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục đại học tích cực đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi số; đẩy mạnh việc xây dựng mô hình công dân học tập, gia đình học tập, cộng đồng học tập, đơn vị học tập theo Quyết định số 387/QĐ-TTg và Quyết định số 677/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Thúc đẩy các thiết chế văn hóa như: Thư viện, nhà văn hóa, câu lạc bộ nhằm tạo ra tài nguyên giáo dục mở phong phú, đa dạng để đáp ứng việc truy cập tri thức của người lớn khi họ có nhu cầu. Các thiết chế này đều phải làm tốt các dịch vụ thông tin và tri thức đến cho người học.

Khởi tạo cuộc sống xanh đô thị: Chăm sóc cây bóng mát trên đường phố, phát triển các vườn cây nhỏ cho mỗi con phố, tạo ra những công viên lớn làm lá phổi cho thành phố; tạo không gian xanh trong từng căn hộ như trồng cây trong chậu, làm giàn hoa trên các ban công; xây dựng các cơ sở cung cấp thực phẩm sạch, các nhà hàng với phong cách ăn uống lành mạnh, hợp vệ sinh; cải tạo các khu nhà ổ chuột; xây dựng hệ thống giao thông xanh trong thành phố...

Nỗ lực làm cho thành phố thông minh hơn trước: Việc đi lại trong thành phố ít khói bụi, dịch vụ xe khách thuận lợi bằng vé điện tử, dịch vụ gọi xe tắc xi công nghệ nhanh chóng, phổ cập điện thoại thông minh để chuyển tiền, mua bán thuận lợi và an toàn, quản lý trật tự đường phố, sức khỏe cư dân, dịch vụ y tế... bằng các phương tiện trực tuyến...

Việc Việt Nam tham gia vào Mạng lưới "Thành phố học tập toàn cầu" thực sự là một hướng đi tích cực vì sự tiến bộ của xã hội trong kỷ nguyên mới. Theo đó sẽ khơi dậy và tiếp thêm năng lượng cho cộng đồng dân cư trong thành phố; thúc đẩy tinh thần tự học tập suốt đời và động lực làm việc tích cực của mỗi người dân. Đồng thời cũng bảo đảm thực thi các nghĩa vụ của công dân trong việc gìn giữ, bảo vệ môi trường sống xanh, bền vững, vì một xã hội ngày càng văn minh, hạnh phúc.

GS, TS PHẠM TẤT DONG