Nó rập rình ở cả những đoạn đèo, khe suối, dòng sông. Nó gây ra những cuộc chia ly vội vàng, không lời trăn trối. Nó cướp đi bao sinh mạng con người mà những người thân không hề được nhìn mặt, được thắp nén nhang vĩnh biệt. Nó làm đảo lộn xã hội, kéo lùi con tàu kinh tế của đất nước ta. Hàng triệu người mất công việc; trẻ con không được tới trường; xã hội sống trong giãn cách...
Con người Việt Nam sống và tồn tại ra sao, với tâm thế nào đây? Trong bối cảnh đặc biệt nêu trên, tôi thích thú đọc tập thơ “Chồi biếc” vì giúp tôi tìm được câu trả lời có tầm phổ quát đó!
    |
 |
Trang bìa tập thơ "Chồi biếc" |
Trong 90 bài của tập thơ này, Nguyễn Hồng Vinh đã dành phần chủ yếu đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân ta nhằm chặn đứng và đẩy lùi đại dịch, mà đội ngũ các chiến sĩ áo trắng, áo xanh, áo vàng là lực lượng tiên phong, nòng cốt. Chỉ cần lướt qua những tít bài trong tập thơ, người đọc đã hình dung nỗi niềm đau đáu, sự trăn trở, dứt day cùng niềm lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi của tác giả đối với cuộc chiến đấu tử-sinh này: Thêm những tình ca, Xanh mãi những cuộc lên đường, Bóng nắng, Cho bình yên sớm đến, Cao đẹp thay những việc làm tình nghĩa, Thuốc thần màu nhiệm, Ngày mai với người thầy thuốc, Giá như, Một nửa, Cho riêng chung vẹn toàn, Nỗi đau và lẽ sống, Nốt nhạc tâm hồn, Hoa và người, Cam kết cho đi, Lời mẹ, Thu hy vọng, Đám cưới đầu xuân... Có thể nói, bao nhiêu sự kiện, bao nhiêu chuyện đạo, chuyện đời diễn ra trong thời gian chống dịch đã được tác giả miêu tả, diễn đạt ở những hình tượng thơ làm xúc động lòng người đọc. Đau thương xiết bao, nhưng không bi lụy. Gian khó cùng cực, nhưng không làm con người gục ngã. Cả dân tộc ta đã và đang trụ vững, đang tiến lên nhờ sức mạnh của truyền thống văn hóa từ ngàn năm “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”, “một miếng khi đói bằng một gói khi no”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”, “cái khó không bó cái khôn”... Sức mạnh của tình người chở che, bao bọc trong hoạn nạn; ý chí năng động, kiên cường, sáng tạo, dũng cảm của con người Việt Nam; sự cố kết của con người và cộng đồng; những phẩm chất tốt đẹp, đáng trân quý của con người Việt Nam... đã được Nguyễn Hồng Vinh thể hiện qua nhiều bài thơ, đoạn thơ gan ruột trong tập “Chồi biếc” này. Tôi tâm đắc với câu thơ mang sức khái quát ở tầm cao về con người Việt Nam ta trong quá trình dựng nước và giữ nước nói chung, trong cuộc chiến đấu đẩy lùi đại dịch Covid-19 nói riêng: “Dân tộc tôi trường tồn bất diệt/ Nhờ những bản tình ca sinh sôi tháng năm”. Chính vì vậy mà “những cuộc lên đường” vào vùng tâm dịch để cứu sinh mệnh con người, các đội quân áo trắng cùng đội quân thiện nguyện vẫn hát vang những bài ca đi cùng năm tháng khi người thân tiễn họ “vẫn ở sân ga này” mà năm xưa ông cha ta đã cùng đoàn quân “Nam tiến”, hoặc ngược lên biên cương ải để chặn xâm lăng! Sức mạnh của văn hóa cùng sức mạnh của vaccine đang giúp cả nước ta trở lại trạng thái “bình thường mới” sau hơn hai năm vượt qua tột cùng gian khó!
Tập thơ “Chồi biếc”, cái tên đã nói một cách khái quát nhất về một phong cách nồng nàn tươi trẻ ấm áp niềm tin vào cuộc đời và con người tác giả. Anh đã định hình một phong cách thơ giàu tình cảm, đậm đà tính triết lý. Luôn neo tâm trạng vào các sự kiện có thật trong đời tư hay trong đời sống lịch sử-xã hội nên thơ anh vừa rõ nét riêng-một cái “tôi” khó lẫn, vừa mang dấu ấn cái chung cộng đồng-một tầm phổ quát nhân tình, có sức thuyết phục người đọc.
Hình tượng thơ Hồng Vinh cắm sâu vào văn hóa nguồn cội, coi đó là mạch nguồn nuôi dưỡng, không chỉ là tâm hồn mà còn nuôi dưỡng chính hình tượng thơ: “Hàng cau cao vút/ Hương hoa ngạt ngào/ Ngọn trầu xanh ngát/ Quấn chặt thân nhau” (Quấn quít trầu-cau). Là người Việt, ai cũng hiểu ý nghĩa về truyền thuyết “Trầu cau”, nhưng trong thơ Hồng Vinh vẫn phát sáng những ý nghĩa mới: Con người phải luôn hướng về nguồn cội, lấy đó là điểm tựa cho sáng tạo và phát triển ở thời điểm hôm nay. Cái mới của tác giả là mượn xưa để nói nay, nói một cách thời sự, thuyết phục: “Tháng 7 âm/ Mưa và mưa triền miên/ Em vẫn trong đoàn thiện nguyện/ Chuyển quà đến Nhà điều dưỡng/ Tặng người già cô đơn/... Anh thắc thỏm đêm đêm/ Mong ngày “Ngưu Lang-Chức Nữ” đến gần/ Về quê thắp nhang viếng mộ/ Lại có dịp chúng mình gặp gỡ!” (Nhịp cầu Ô Thước). Ngày xưa, Ngưu Lang-Chức Nữ là vợ chồng, nhưng chỉ được gặp nhau một lần. Hiểu thế càng thấy sự hy sinh của “anh” và “em” thật lớn lao. Ngày xưa nước mưa là nước mắt. Ngày nay không thế, nhưng có nước mắt trong lòng! Họ đã vì con người, vì cộng đồng trong những ngày buộc phải giãn cách để có bình yên đất nước!
Tập thơ nói nhiều đến tâm linh: “Khói nhang lại tỏa bay trên nghĩa trang xanh mát...” (Nén nhang tri ân không tắt). Khói nhang, theo tập quán là sự mời gọi, là “cầu nối” mời người đã khuất về với dương gian. Ai cũng hiểu thế. Nhưng ở câu thơ này, đặt trong tổng thể hình tượng, “khói nhang” còn tỏa hương trầm tới lòng bạn đọc, gợi về sự hy sinh của người đã khuất, gợi niềm tri ân. Sự sống vẫn vươn lên “xanh mát”, vượt lên trên sự mất mát, thương đau. “Bóng nắng bỗng biệt tăm/ Khi em vào trong ấy/ Đâu được ngắm trời xanh/ Chỉ trong phòng vôi trắng/ Cứu người qua tử thần” (Bóng Nắng). Ba tháng trời đằng đẵng, người nữ bác sĩ quần quật ngày đêm cứu người bệnh giành sự sống; và khi hàng trăm bệnh nhân về với người thân, họ mới được ngắm trời xanh: “Bóng nắng dài bên cửa/ Ấm trùm theo bóng anh”. Trong giãn cách xã hội, cả hai vợ chồng tham gia đội quân thiện nguyện, ngày gặp nhau chỉ gật đầu chào vì công việc bộn bề, nhưng hơn thế là ý nghĩa cao đẹp “Tạm xa để đoàn tụ sớm/ Trong lòng thanh thản tin yêu” (Cho bình yên sớm đến). Một vị tướng đã từng xông pha trận mạc, đã từng rơi lệ nhiều lần khi chôn cất đồng đội hy sinh, nhưng lần này trái tim ông quặn thắt khi chứng kiến những cháu bé vừa cất tiếng khóc chào đời đã phải xa hơi mẹ, vì mẹ đã về cõi âm bởi dương tính! Ông tự nguyện nhận 3 cháu về nuôi và một số trẻ lang thang cơ nhỡ. “Về đây thành đại gia đình/ Trong biệt ly xa xót âm thầm/ Tình người như lửa hồng đêm lạnh/ Đẩy lùi gian lao, thắp lên hy vọng” (Ngôi nhà tình thương).
Trong tập thơ này, Hồng Vinh mở rộng ra nhiều chủ đề thời sự. Đại dịch Covid-19 đi liền sự đe dọa của biến đổi khí hậu, sự ô nhiễm môi trường sinh thái. Con người vừa là chủ thể làm nên lịch sử, nhưng cũng là “tội đồ” tàn phá cây rừng, hút cát làm sạt lở những bờ sông thơ mộng. Trái đất ngày một nóng lên. Băng đang tan ở Bắc Cực và Nam Cực, nước biển mỗi năm dâng cao, nước mặn thấm sâu nhiều vùng đất Chín Rồng trong mùa khô hạn. Tác giả gióng lên tiếng chuông cảnh báo: “Câu trả lời trong ta và cũng ngoài ta/ Khi trí tuệ dẫn đường, lòng người cùng chí hướng/ Dẹp lòng tham, nuôi khát vọng hùng cường!” (Từ thực tại sinh tồn, suy ngẫm). Đó là một “liên văn hóa” Phật giáo. “Trong ta và cũng ngoài ta” chẳng phải là “sắc sắc không không” sao? Còn là âm vọng của lời Phật dạy: Phải hiểu biết (trí tuệ), phải rời bỏ “tham”, “sân”, “si”. Khi con người có ngọn đuốc trí tuệ dẫn đường sẽ vượt qua bể khổ tham, sân, si đi về phía vô thường hạnh phúc! Cái mới ở đây, khác nhà Phật, là “nuôi khát vọng hùng cường” phát triển đất nước giàu mạnh! Thi phẩm là một tiếng nói khẩn thiết, nhưng mở ra cả một chân trời lạc quan, tin vào lương tri con người, một khi được đánh thức!
Thơ Hồng Vinh có nhiều “liên không gian” nên hình tượng mở ra nhiều chiều, nhiều hướng. Từ Hà Nội, anh đưa bạn đọc về với Cà Mau, đến với Lũng Cú..., về quê anh, về với đồng chiêm, về với màu xanh ngô, lúa... Một không gian thơ được mở hơn: “Hoa anh đào mùa này ở Nhật Bản, châu Âu, châu Mỹ/ Bỗng dưng nở trước thời gian!” (Bâng khuâng anh đào). Vốn rất nhạy cảm với thời tiết, Trái đất nóng lên đã làm hoa nở sớm. Hiện tượng đó, lại xảy ra trong bối cảnh: “Khi đại dịch đang hoành hành nhiều nước” nên càng là một tín hiệu bất ổn. Nhưng con người không nao núng vì con người đã tạo ra một “liên văn hóa” hữu nghị, sẻ chia, hợp tác giúp nhau vì sự sống nhân loại: “Từ lặng im đã lóe lên hy vọng/ Hàng triệu liều vắc-xin đang tỏa đi nhiều nước/ Chặn đại dịch cứu mạng người cùng loài hoa thắm sắc lung linh”... Hồng Vinh có một bài thơ hay, từng in báo vào dịp Tết, đó là bài “Hoa ban”: “Cây hoa ban bên cửa/ Trổ một bông mùa đầu/ Sắc tím hồng e ấp/ Giữa nắng đông xôn xao...”. Tả hoa như thế không phải là điều mới. Cái mới lạ ở đây chính là “liên văn hóa”: Được mang từ Tây Bắc về trồng ở Thủ đô, nay đã nở mùa hoa đầu. Không chỉ là hoa, đó còn là biểu tượng của đoàn tụ và hy vọng. Cũng vậy, con người, dù có sống tận nơi xa xôi nào trên Trái đất này đều hướng về đất nước, như hoa ban, sẽ kết quả mùa sau. Bài thơ càng có ý nghĩa vào dịp Tết cổ truyền sum họp, muôn triệu con tim hướng về tổ tiên như muôn cành lá hướng về nguồn cội! Cùng mạch thơ ấy, là những bài: Nguồn nhựa sống linh thiêng, Cam kết cho đi, Thu hy vọng, Điểm tựa bình yên Tổ quốc... thể hiện cảm xúc dâng trào của ngòi bút luôn trân trọng ấp ủ cái thiện, bồi đắp niềm tin vào đất nước ngày mai với những con người Việt Nam yêu nước, thương nòi, đã và đang chung lòng, hợp sức giữ bình yên đất nước, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng!
Tên tập thơ “Chồi biếc” thật gợi, là sức sống, là hy vọng, là niềm tin vào sự phát triển trong bão dông đủ loại, nhắc nhở mọi người cần nâng niu những gì mới mẻ, tinh khôi, hứa hẹn: “Gian nan sáng lên hạnh phúc/ Cùng nhau nhân tiếp màu xanh” (Nhân tiếp màu xanh). Nhân tiếp màu xanh là nhân lên hy vọng, nhân lên hạnh phúc. Mà hạnh phúc, hy vọng chẳng phải là cái đích đến của văn hóa sao?
Hà Nội, tháng 3-2022
NGUYỄN THANH