(trích)
Xe đang lao qua quãng dốc. Từng mảng rừng, lèn đá, những bãi tranh ngổn ngang hố bom từ trên cao rơi ập xuống tấm kính buồng lái. Tôi đang đi bỗng như có linh tính, vội đạp phanh cho xe chậm lại. Qua tấm kính trước mặt hiện ra một ngọn đèn pháo sáng xanh lét run rẩy, soi lòe nhòe ở trên đầu.
- Không nghe tiếng máy bay sao lại có pháo sáng hử?-tôi nghe ngóng và thốt lên.
Từ đầu, cô gái ngồi chống khuỷu tay lên thành cửa nhìn ra ngoài. Cô quay vào, nói:
- Không phải đâu. Trăng đó anh ạ!
Trăng thật. Hôm nay đầu tháng. Từ đầu hôm, tôi vẫn đi giữa đêm trăng mà không biết. Cô gái vẫn bình thản ngồi nhìn ra ngoài trời. Tôi quẹt diêm châm một điếu thuốc rồi tăng số cho xe phóng nhanh hơn, trong lòng vẫn không hết ngượng. Già đời trong nghề lái xe, bom đạn nguy hiểm gặp đã nhiều, tôi vốn không phải anh nhút nhát, vậy mà không hiểu sao đêm nay nhìn trăng ra pháo sáng. Qua tấm kính ướt hơi sương, mảnh trăng nằm giữa những tầng mây hiện ra tái ngắt, ánh sáng lòe nhòe, mỗi lúc xe nảy lên hay vòng qua chỗ lượn, mảnh trăng lại chập chờn lay động, có lúc thấy rơi tõm xuống khoảng tối mịt mù của cánh rừng già như một trò chơi ú tim.
    |
 |
| Bìa cuốn "Nguyễn Minh Châu tuyển tập" (Nhà xuất bản Văn học, 2018). |
Khoảng gần khuya, trên các mỏm rừng, gió Tây Nam cuốn mây xám về một góc rồi thổi dạt đi. Gió thổi vào cành lá ngụy trang trên nóc xe ràn rạt. Trên đầu chúng tôi, khoảng trời đêm trên cao trở nên trong vắt, cao lồng lộng, trong khoảng sâu thẳm nổi lên một tiếng chim mơ hồ. Nhưng ở lưng các cánh rừng, sương trắng không biết từ đâu cứ đùn ra mãi. Dòng sông bên trái đường phút chốc biến mất, chỉ còn là sương trắng phủ kín, thảng hoặc mới thấy một chỏm rừng, một ngọn núi đá bên kia sông nhô lên, đen đủi và cô độc giữa một màu trắng xóa.
Xe tôi chạy trên lớp sương bềnh bồng. Mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời, sáng trong như một mảnh bạc. Khung cửa xe phía cô gái ngồi lồng đầy bóng trăng. Không hiểu sao, lúc ấy, như có một niềm tin vô cớ mà chắc chắn từ trong không gian ùa tới tràn ngập cả lòng tôi. Tôi tin chắc chắn người con gái đang ngồi cạnh mình là Nguyệt, chính người mà chị tôi thường nhắc đến. Chốc chốc, tôi lại đưa mắt liếc về phía Nguyệt, thấy từng sợi tóc của Nguyệt đều sáng lên. Mái tóc thơm ngát, dày và trẻ trung làm sao! Bất ngờ, Nguyệt quay về phía tôi và hỏi một câu gì đó. Tôi không kịp nghe rõ vì đôi mắt tôi đã choáng ngợp như vừa trông vào ảo ảnh. Trăng sáng soi thẳng vào khuôn mặt Nguyệt, làm cho khuôn mặt tươi mát ngời lên và đẹp lạ thường!
Tôi vội nhìn thẳng vào đoạn đường đầy ổ gà, không dám nhìn Nguyệt lâu. Từng khúc đường trước mặt cũng thếp từng mảng ánh trăng...
- Anh nhỉ? Có phải không nhỉ?
- Cô hỏi gì?
- Em hỏi có phải các anh lái xe đi nhiều nơi, chắc hẳn quen biết nhiều người lắm?
Tôi hiểu cái dụng ý trong câu hỏi. Câu ấy có quan hệ đến tôi nhiều lắm.
- Đời lái xe chúng tôi như con vạc ấy, cô ạ! Nay rừng này, mai qua suối kia, nhưng tháng này sang tháng khác vẫn làm bạn với đường, với trăng thôi.
Chẳng biết lúc ấy, ai mới móc miệng cho mà tôi bỗng trở nên ăn nói văn vẻ đến thế!
Quá nửa đêm, chúng tôi đến gần cầu Đá Xanh thì trăng lặn. Chúng tôi không nói chuyện nữa. Mảnh trăng đã khuất hẳn xuống khu rừng ở sau lưng. Tôi bật chiếc bóng đèn “quả dưa” cho sáng hơn và bảo Nguyệt: “Cô chú ý nghe hộ, từ đây đường thường có máy bay”. Nguyệt vẫn thản nhiên ngồi nhìn ra ngoài: “Anh cứ yên tâm, đoạn này em quen lắm!”.
Nguyệt hướng dẫn tôi đánh xe rẽ sang con đường xế về phía ngầm. Con đường thấp hẳn xuống, quanh co, sục lên một thứ bùn quánh nhão nhoét quanh những hố bom cũ và mới. Tôi dán mắt qua mặt kính, thận trọng lái hai bánh trước tránh hai vệt bánh xe như hai cái rãnh thoát nước ở giữa đường. Có đoạn, bánh trước sục xuống rãnh sâu quá, Nguyệt phải xuống xi nhan cho tôi kéo lên. Có đoạn không nhích lên được, tôi phải cài số phụ, rồi tăng ga mãi. Không khí trong buồng lái nóng sực. Lốp xe quay tròn, siết trên đá tóe lửa khét lẹt.
Nguyệt nhìn đoạn đường khó đi, nói như thanh minh:
- Chúng nó ném bom luôn, chúng em đã rải bao nhiêu đá mà đường sá còn ra thế!
Tôi vò chiếc mũ vải trong bàn tay, lau mồ hôi rồi tính đến lúc sắp phải từ biệt Nguyệt:
- Cô sắp xuống rồi chứ? Bao giờ xuống, cô bảo tôi để tôi dừng xe.
Đáng lẽ Nguyệt xuống ngang quãng trạm gác bến ngầm ở ngã ba, nhưng cô muốn đưa tôi đi tiếp sang bên kia sông. Cô cười, nói đùa:
- Anh đã cho em đi nhờ xe, lúc khó khăn lại bỏ anh ư?
Tôi nói rất nghiêm trang:
- Thế nào chúng ta cũng còn gặp nhau! Mà dù cô xuống từ dưới kia, tôi cũng không bao giờ nghĩ cô là một người khi khó khăn thì bỏ người khác.
- Sao vậy anh?
- Trông cô, tôi biết...
Một làn nước hiện ra trước mặt. Đoạn ngầm Đá Xanh ngắn thôi, nhưng mấy hôm trước mưa lũ, nước dâng cao trên mặt đá đến hơn 1m. Vừa đánh xe xuống đã nghe nước tràn vào ống xả hơi ùng ục. Chiếc xe lắc điên đảo, lúc ngoi lên, lúc hụp xuống, ánh đèn chiếu sáng mặt nước loang loáng. Ra đến quá nửa ngầm thì nước sâu quá, xe không đi được nữa.
Nguyệt đứng bám bên cánh cửa hướng dẫn cho tôi đi đúng giữa hai hàng cọc tiêu. Cô vội nhảy ùm xuống nước, bảo tôi tắt đèn.
- Có máy bay à?
- Để em nghe kỹ xem đã. Anh cứ tắt đèn đi. Loáng đèn dưới nước trông xa lắm đấy!
Đèn tắt. Chưa bao giờ trời tối đến thế, chỉ nghe tiếng nước vỗ ì oạp vào tai xe. Tôi cố tiến, lùi nhưng xe chỉ lắc lư, vòng lái nặng như cối đá. Giữa đêm lạnh mà quần áo tôi ướt đẫm. Nguyệt để cả quần áo thế, nhanh nhẹn lội phăng sang bên kia bờ giúp tôi cột dây tời vào một gốc cây. Tôi xoay xở như đánh vật một lúc, cuối cùng cũng đưa chiếc xe leo lên được tới quãng đường rải đá khấp khểnh.
Chúng tôi thở không ra hơi, đang mò mẫm cuốn dây tời thì máy bay đến. Từ sau rặng núi đá dựng đứng bên trái, bọn chúng ập đến như tiếng sét. Tiếng máy bay ầm ầm. Tôi vứt vòng dây sắt nặng trĩu trên tay, chạy nhào về phía xe. Vừa chạy được hai bước, tôi đã bị Nguyệt túm lấy kéo trở lại, nhanh và khỏe hết sức. Nguyệt đẩy tôi ngã vào giữa một vật gì rất cứng và sâu. Nghe hơi thở và tiếng nói của Nguyệt rất bình tĩnh: "Chúng đánh tọa độ đấy!".
Một ánh chớp giật mát lạnh, đất rùng lên một hồi. Lặng đi mấy giây, tưởng có thể nghe được tiếng vỗ cánh của một con dế rất nhỏ, bỗng đâu đất, đá và cành cây bé, cành cây lớn rơi ầm ầm, rào rào. Tôi vừa kịp nhận ra mình đang đứng giữa một cái khe chỉ vừa một người, hai bên là hai gốc cây to. Nguyệt đang nấp ở mé ngoài.
Hai thằng địch khác lại sắp lao xuống, lại sắp một đợt khác. Tôi nắm tay kéo Nguyệt vào khe, nhưng Nguyệt nhất định không chịu. Nguyệt thét lên: “Anh bị thương thì xe cũng mất, anh cứ nấp đó!”. Không ngần ngại, tôi bế xốc Nguyệt đặt giữa cái khe giữa hai gốc cây rồi chạy về phía xe đỗ.
Địch bắn hai mươi ly đỏ lừ, nghe rát cả mặt. Xe tôi vẫn đứng đó, lửa đã bén vào lốp. Tôi dập lửa, trèo lên xe, nổ máy. Nguyệt cũng vừa chạy đến bên cánh cửa.
- Cho xe chạy đi anh, nó còn tiếp tục đánh ngầm đấy!
- Chạy chứ!
Một loạt bom rất gần, hơi bom xô Nguyệt ngã dúi. Tôi kéo Nguyệt vào trong, đóng cửa buồng lái rồi chẳng đèn đóm gì hết, cứ theo lời Nguyệt chỉ đường, tôi cho xe phóng. Địch quây tròn trên đầu như xay lúa, rất thấp, thả pháo sáng và bắn hai mươi ly. Mặc, tôi cứ chạy và Nguyệt cứ nói rành rọt như người đếm bên cạnh:
- Anh ngoặt sang trái... Trước mặt anh có hố bom đấy... Chuẩn bị, sắp lên một cái dốc có cua...
Qua một quãng khó đi và tối quá, Nguyệt nhảy xuống đi dò trước. Tôi cứ nhắm cái bóng trắng nhờ nhờ của Nguyệt trước mặt mà lái theo.
Lên quá độ hai cây số, tôi dừng xe nép vào bên một ta luy cao có cây rậm. Tôi bật đèn buồng lái. Cái tôi trông thấy đầu tiên là có vết máu bên vai Nguyệt, vết máu chảy loang đỏ cả cánh tay áo xanh. Chết thật, cô ta bị thương rồi! Không biết Nguyệt bị thương loạt bom đầu tiên, lúc tôi nấp dưới khe hay khi cô vùng chạy theo tôi trở về xe? Thú thực, lúc ấy trong lòng tôi dấy lên một tình yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn cảm phục.
Nguyệt nhìn vết thương, cười. Khuôn mặt hơi tái nhưng vẫn tươi tỉnh và xinh đẹp. Từ đầu đến chân, cô ta ướt như một con công vừa tắm. Tôi rút chiếc mùi soa đầy vết dầu mỡ trong túi, buộc ngoài lần áo xanh để cầm máu. Tôi đề nghị đưa Nguyệt sang bên kia ngầm về đơn vị, nhưng Nguyệt gạt đi:
- Đây là giang sơn của em rồi. Anh đi đi, không trời sáng mất!-rồi Nguyệt lại cười: Anh cứ yên tâm, vết thương chỉ sướt da thôi. Từ giờ đến sáng, em có thể đi lên đến tận trời được!
Gà rừng đã eo óc gáy thưa thớt. Tôi không thể bỏ xe được. Tôi đành từ biệt Nguyệt, nắm bàn tay thấm ướt máu rất lâu và tôi nói một lời hứa đinh ninh: “Ngày mai, tôi quay về, nhất định tôi vào... thăm Nguyệt!”.
Tôi lên xe, phóng như bay về phía tiền tiêu, với một tâm trạng vui sướng, rộn ràng rất lạ và cũng rất lo lắng cho Nguyệt, lúc nào cũng thấy trước mắt bóng một người con gái mặc áo xanh, một bên cánh tay buộc chiếc mùi soa của tôi. Với chiếc làn và chiếc nón trắng mới, cô ta đang đi trở lại về phía ngầm. Có lúc, tôi lại thấy cô quay lại, khuôn mặt đẹp lộng lẫy đầy ánh trăng...
|
“Mảnh trăng cuối rừng” của nhà văn Nguyễn Minh Châu là bài ca người lính ánh lên vẻ đẹp lung linh tinh thần tận hiến của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến tranh. Câu chuyện tình lãng mạn của anh lính lái xe tên Lãm và cô công nhân giao thông tên Nguyệt được kể một cách hấp dẫn, đã phát hiện ra “hạt ngọc ẩn giấu” trong tâm hồn con người Việt Nam thời chiến tranh khốc liệt, đầy âm hưởng hùng tráng. Tình huống truyện điển hình về cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên, song kết quả lại tất nhiên khi “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”.
Truyện đã xây dựng cặp nhân vật chính: Lãm-người lính lái xe anh dũng trên đường Trường Sơn thể hiện sáng ngời phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Nguyệt lại như một tấm gương soi với Lãm: “Trong tâm hồn người con gái nhỏ bé, tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn giội xuống cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá nổi ư?”. “Mảnh trăng cuối rừng” là tác phẩm tràn đầy chất hiện thực và lãng mạn của một thời đại anh hùng sản sinh ra những người anh hùng trong ý nghĩa rộng nhất của từ này. (Nhà phê bình văn học BÙI VIỆT THẮNG)
|
NGUYỄN MINH CHÂU