Muối, trước hết là vị không thể thiếu hằng ngày trong cuộc sống loài người từ hàng nghìn năm nay. Nhưng muối đã đi vào tinh thần nhân loại như một ẩn dụ giá trị của nghệ thuật, của cách sống, tinh thần sống. Một cách hàm súc nhất: Muối kết tinh của nước biển-cũng là “chất” của tình người.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đặt ra nhiều thách thức khi con người xâm hại, tàn phá môi trường tự nhiên, gây mất cân bằng sinh thái... mà sự kỳ diệu của Cách mạng công nghiệp 4.0 và thời đại số hóa khó tạo ra phép màu thần tốc để sửa sai, chống đỡ các hậu quả hệ lụy, thì những giá trị bản nguyên của loài người tiến bộ được khơi dậy, tôn vinh.

Đó là cách cứu chuộc sự sống tương lai bằng vận động nội tâm, của tình yêu sự sống trong mỗi cá nhân, mỗi công dân với Trái Đất.

leftcenterrightdel
 Minh họa: LÊ ANH

Dù đặc thù các mùa trong năm đã có sai lệch khác thường gây ngỡ ngàng lo lắng thì may mắn thay, mùa đông vẫn lạnh đúng như tính chất của nó để sự ấm áp của tình đời tỏa truyền rõ nhất dịp cuối năm, áp Tết.

Suốt một năm cam go, bí bách, căng thẳng, mới thấy rõ hơn về bản thân, về người thân, hàng xóm, cộng đồng, đất nước và thế giới. Con người ta có các thời điểm bộc lộ rõ bản chất chính xác khi quá khổ, khi quá sướng và lúc hiểm nguy, khó khăn. Những “mốc” ấy thử thách lòng tham, lòng tin, lòng nhân ái, lòng tự trọng.

Việt Nam, quốc gia bên Biển Đông, với hơn 3.000km bờ biển, nhiều địa phương có nghề truyền thống làm muối, nước mắm. Trong các công việc lao động nặng nhọc, thì diêm dân (người làm muối) luôn được kể hàng đầu. Quê ngoại tôi ở Hải Phòng, nơi Văn Cao đã viết: “Tôi sinh ra đã có Hải Phòng/ Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại/ Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi”. Bà ngoại tôi, nay 93 tuổi, từng phơi lưng trên cánh đồng muối những năm 1965-1985, cật lực trồng rau, nuôi lợn gà... ngoài công việc hợp tác xã muối, mà vẫn thiếu thốn khi đông con. Cánh đồng muối Cẩm Bình Đông (thị xã Cẩm Phả) chan mồ hôi của bà. Người Hải Phòng, Quảng Ninh, khi nấu ăn, thường nấu đậm (đậm chứ không phải mặn) và thường được coi (cũng tự nhận) là dân biển “ăn sóng, nói gió”. Mặn, cá ướp để được lâu, ăn dè. Mặn vì bao đời truyền vị giác đã thành tính cách, tâm hồn mạnh mẽ, rành mạch chứ không nên hiểu giản thô “chém to, kho mặn”.

Nói đến muối, thường ta hay nghĩ ngay đến chuyện ăn. Ẩm thực quốc gia nào thiếu được muối. Thời nay, càng làm chủ nhiều công nghệ hiện đại, con người càng lắm nỗi sợ, nhất là sợ bệnh tật, mà không ít bệnh có thể kiểm soát bằng ăn uống. Nói chung, ai hiểu biết đôi chút về y tế thường kiểm soát bản thân và khuyến cáo mọi người không nên “quá” trong mọi trường hợp từ ẩm thực đến lao động, mọi trò tiêu khiển. Trong ăn uống, tránh ăn mặn hoặc nhiều ngọt. Nói vậy chứ ăn là sinh thú đầu tiên và quan trọng bậc nhất, sao mà tuyệt đối tuân thủ nghiêm ngặt được. Rất khó cấm trẻ con ăn kẹo và ép bản thân ăn nhạt trường kỳ: Ngọt, mặn, đắng, cay không chỉ là vị của ẩm thực mà đã thành vị của đời người. Mặn, là muối ăn, là vị của mồ hôi, của nước mắt, của máu. Rộng hơn, sự mặn mà còn là tiêu chí để khen, thẩm định dung nhan, tác phẩm, cách sống: “Cô ấy đẹp/duyên dáng mặn mà” hay “Tác phẩm đậm chất trữ tình”, “Tập thơ/Bài hát nhạt” (nhòa, tẻ, không có dấu ấn gì), “Đối với nhau tình sâu đậm”. Ăn nhạt cho người ăn kiêng. Còn công chúng thưởng thức thì không ai chấp nhận tác phẩm và nghệ sĩ nhạt nhẽo.

Bởi tính cách mạnh mẽ, mãnh liệt, hào sảng, nghệ sĩ, anh hùng của người Hải Phòng chi phối đặc trưng ẩm thực hay ngược lại mà thị dân đất Cảng quen ăn/chế biến thức ăn đậm đà... Sự mặn này đã thành dấu ấn cuộc đời thi sĩ Thanh Tùng (quê Nam Định), trưởng thành và gắn bó thành danh nơi này, để đời bài thơ cuộn dâng cháy bỏng “Hải Phòng-Muối của đời tôi”: “Hải Phòng ơi tôi đã tan vào Người/ Trong ngổn ngang mãnh liệt/ Để hôm nay dù ở nơi nào/ Cũng không nhạt nhẽo/ Vì Người là muối của đời tôi”.

Chưa từng có một ví von nào độc đáo trước Thanh Tùng, về thành phố Hoa phượng đỏ, nay thêm biểu tượng Thiên Nga. Bao tục ngữ, ca dao, dân ca, thi ca coi muối là biểu hiện nghĩa tình “Tay bưng chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Khi đói rét, lúc chiến tranh, người Việt Nam vẫn “nhường cơm sẻ áo” cho nhau từng hạt gạo, hạt muối chắt chiu. Những năm chống Mỹ, bộ đội thiếu muối bủng da, có muối lại san sẻ cho bà con nơi đóng quân. Muối là hàng quý trọng trao đổi hàng hóa vùng cao, Tây Nguyên một thuở. Giờ đây, muối khó tiêu thụ “đầu ra” vì ứ thừa, số người ăn nhạt tăng, nhưng đời chưa khi nào thiếu được muối. Muối đọng nước biển sau những trưa nắng lớn, muối kết đọng hạt rồi chế biến thành muối tinh, các loại bột canh, bột nêm, gia vị. Còn muối của đời là tình yêu, tình thương, tình người.

Truyền thống, phẩm chất tình cao đẹp của người Việt Nam khởi từ truyền thuyết “bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ” chung bào thai cùng mẹ sinh ra, nên Việt Nam sở hữu một từ thiêng mà không quốc gia nào trên thế giới có được: Đồng bào.

Đã là đồng bào thì “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, phải sống với tinh thần “Tương thân tương ái”, “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách”, “Một nắm khi đói bằng một gói khi no”. Cũng không có quốc gia nào trên thế giới coi lực lượng vũ trang gắn với nhân dân bằng máu thịt, vì ở Việt Nam, quân đội là Quân đội nhân dân, công an là Công an nhân dân. Họ từ nhân dân mà ra và vì nhân dân mà làm việc, không đơn thuần thực thi nghĩa vụ, bổn phận thi hành nhiệm vụ, mà dốc sức tận tụy “Vì nhân dân quên mình/ Vì nhân dân hy sinh”. Không chỉ “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”, Việt Nam sống nghĩa tình với bạn bè quốc tế. Dù còn thiếu hụt, song khi Nhật Bản gặp thiên tai, Việt Nam nhanh chóng gửi tiền đóng góp. Việt Nam thường xuyên đào tạo, xây dựng trường học, đường sá, công trình, tặng máy tính, thiết bị cho Lào, Campuchia, Cuba. Gần nhất, kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, Việt Nam gửi tặng người bạn quý thủy chung Cuba 5.000 tấn gạo. Từ Xuân 2020, nhóm kiều bào-du học sinh Việt Nam ở Pháp lập Hội Trái tim Việt-France, mang khẩu trang, đem thức ăn tặng nhân viên y tế các bệnh viện tại Paris.

Cuối năm cũ giao năm mới, lúc đông chuyển sang xuân, cũng là mùa Nhớ, mùa trao gửi, mùa Tri ân. Lời kêu gọi của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc “Không để ai bị bỏ lại phía sau” vẫn là một thôi thúc, hiệu triệu.

Đại dịch Covid hoành hành không biết khi nào mới kết thúc. Mọi hoạt động xã hội bị ảnh hưởng, kinh tế thiệt hại nặng nề, nhưng qua đây, tình người vẫn sáng lên lửa ấm.

Hết 3 tháng học sinh nghỉ học, cách ly xã hội mùa xuân 2020, lại bão lũ chồng chất đau thương ở miền Trung. Thời tiêu dùng sẵn và tiện lợi, bánh chưng có quanh năm. Nhìn ở góc độ lạc quan, bà con các tỉnh thiên tai đã được “ăn Tết sớm” bởi hàng vạn bánh chưng, bánh tét gửi từ Hà Nội, TP Hồ Chí Minh vào cứu trợ, cùng hàng trăm tấn vật phẩm, mấy trăm tỷ đồng đóng góp... Trong thời bình, bộ đội, công an vẫn hy sinh, bởi các anh sẵn sàng xông pha nơi hiểm nguy, gian khổ nhất. Các anh đã dấn thân vì lý tưởng hiến dâng. Tình quân dân cao cả xây đắp liên tục, xuyên suốt hơn 76 năm qua.

Năm triệu kiều bào xa Tổ quốc, sống trên 100 quốc gia, vùng lãnh thổ, 317 thành viên hội doanh nhân người Việt ở 38 quốc gia là “máu thịt Việt Nam không thể tách rời”. Từ năm đầu mở cửa, lượng kiều hối đạt 300 triệu USD, năm 2020 sa sút kinh tế, kiều hối vẫn đạt gần 16 tỷ USD.

Ở trong nước, tại nước ngoài, có hội đồng hương hội tụ bà con cùng quê. Người Việt tha hương đều cùng quê cội Việt, dòng giống Lạc Hồng. Với người Việt Nam yêu nước, ở bất cứ đâu, Tết là dịp để nhớ, nhớ những khi thiếu thốn, nhớ quá khứ mà nuối tiếc thời gian, quãng đời vô giá khi đông đủ người thân, bè bạn. Tết là dịp bù chuộc những thiếu sót trong năm mà do bận bịu lo toan cuốn mọi người vào vòng xoáy mưu sinh, những cuộc đua tưởng không hồi kết, quá tải áp lực liên tiếp khiến ở bên nhau mà lắm lúc sao lãng, vô tình với nhau.

Tết là dịp báo hiếu, trả nghĩa, gửi trao vượt khỏi phạm vi gia đình, họ tộc. Tết là dịp mà tất cả mọi công dân lương thiện của thế giới này đều muốn dành cho nhau niềm vui, lời chúc tốt lành, cư xử ôn hòa, vui vẻ, lịch sự, sự ấm áp, tử tế truyền tỏa như vị muối kết tinh thấm sâu cả hành tinh khát xanh hòa bình và an lành khi xuân đến. Tích thiện mỗi ngày sống là vị đời nuôi mạch thiên lương cho con, cháu, cho phát triển bền vững tương lai khi người với người, người với vạn vật, với thiên nhiên đều hiền hòa, sống vì nhau, dựa vào nhau, vun đắp yêu thương bởi ngọn cỏ, bông hoa, cái cây cũng có hồn, cảm nhận được tình người, khi được quan tâm, chăm chút.

Vẳng lời quan họ “Mười nhớ” da diết tình tứ: “Một em nhớ đôi bạn chung tình.../ Bốn em nhớ đến đôi người đồng tâm/ Sáu em nhớ em gửi lời thăm người/ Bảy em nhớ tới người tri kỷ/ Chín em nhớ đến đôi người tri âm/ Mười xinh chung tình nên em nhớ”. Tình đời, còn là tình với ngôn ngữ gốc là tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ thiêng liêng.

Ở tiểu học, tiếng Việt là môn học chính, mọi học trò phải học để biết chữ, biết đọc, viết, rồi hành văn. Nhưng lên đến THPT môn Văn lại ngày một giảm được yêu thích, vì tư duy thực dụng lấn át khi học sinh chỉ chú ý môn học sẽ thi đại học, ngành nghề chọn chưa chắc tương đồng năng lực, ước mơ vì do bị chi phối hướng nghiệp bởi xu thế xã hội, cơ hội việc làm. Ngữ văn-tiếng Việt như bị học đối phó, trong khi đây là tiếng tâm hồn.

Tôi đã “muối mặn” tôi bằng tình yêu tiếng Việt.

Tuần hoàn xuân lại đến theo năm mới, cứ luôn gây bồi hồi, hy vọng. Xuân mới tôi muối mình bằng cảm thức yêu thương, khát khao cống hiến một năng lượng mới. Và tôi tin, mùa xuân cộng hưởng tất cả chúng ta trong khát khao một năm 2021 tốt đẹp bằng nỗ lực vượt bậc.

Tùy bút của VI THÙY LINH