80 năm đã trôi qua, những người đang sống hôm nay hầu hết là lứa hậu sinh, hình dung lại thời khai sơn phá thạch ấy, nhìn ra đất nước hôm nay, nghe trong lòng dào dạt niềm vui và không ghìm được lặng thầm nước mắt. Tôi ao ước được sống trở lại, dù chỉ là một mảnh nhỏ cảm xúc của người thời ấy. Tôi tìm vào thơ. Hầu hết các nhà thơ đều lưu được ít nhiều hương vị của lòng mình cùng sắc trời hôm ấy, chiều quảng trường Ba Đình hôm ấy. Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, tiếng Nghệ thân thuộc, nhưng người nghe bỡ ngỡ. Bỡ ngỡ vì toàn dân lần đầu nghe tiếng Bác, tiếng nghe thật trong đời hay tiếng ở trong mơ. Những giây phút thiêng liêng. Tưởng nghe được cả tiếng hô đền nợ nước của bao nhiêu liệt sĩ anh hùng. Phải chăng Bác Hồ cũng cảm nghe trong giọng của chính mình có gì khác khác, mà bỗng nhiên giữa mạch đọc Tuyên ngôn, Người dừng lại, quay nhìn đồng bào và chợt hỏi: "Tôi nói đồng bào nghe rõ không?". 

Một niềm xúc động lớn trào lên trên quảng trường thưa lại Bác: Thưa Bác, rõ... Thưa Cụ, rõ ạ!

Người làm thơ trẻ Hoài Việt hồi ấy, vốn là thầy giáo dạy văn trung học, trong bài thơ lấy nguyên câu Bác hỏi đó làm đầu bài, đã không nói tới lời dân thưa lại Bác đang dào lên trên quảng trường, mà ông lắng nghe trong lòng mình những nỗi niềm dĩ vãng của thân phận người dân mất nước:

Tôi nói đồng bào nghe rõ không
Tiếng Bác vang lên sưởi ấm muôn lòng

Tôi không rõ là bài thơ này ông Hoài Việt viết ngay ngày hôm ấy hay là mãi sau này. Thực tế thì ngày Bác đọc Tuyên ngôn Độc lập đều thành vốn kỷ niệm sâu sắc trong mỗi đời người. Nhưng với thơ, trong không gian cách mạng, tổng khởi nghĩa sôi động ấy, khó có ai bình tâm mà ngồi với chữ nghĩa. Nhập cuộc vào sự kiện, sống như nạp lịch sử vào đời mình xem chừng có sức hấp dẫn đặc biệt. 

leftcenterrightdel

Bác Hồ và nhà thơ Tố Hữu thăm đồng bào Cao Bằng, năm 1961. Ảnh tư liệu 

Trong ngót một chục bài thơ mà tôi tập hợp được để viết bài báo này, chỉ có hai bài là thơ viết ngay trong sự kiện của hai tác giả vào loại được "trao nhiệm vụ" phải có bài là Tố Hữu và Xuân Thủy. Cả hai đều thuộc diện cán bộ lãnh đạo khởi nghĩa Trung ương hoặc địa phương. Xuân Thủy còn là một nhà báo lão luyện. Và ông đã làm thơ với tác phong báo chí: Nhạy thực tế và nhanh có bài. Hai chất nhanh, nhạy ấy thể hiện khá rõ trong bài thơ "Ngày Độc lập". Xuân Thủy cũng lọc ra chi tiết Bác thân mật hỏi đồng bào giữa câu văn đọc nhưng ông không phục hiện “nguyên văn” câu hỏi mà chỉ lấy ý và kế lẫn vào nội dung của Tuyên ngôn. Thơ Xuân Thủy không mạnh trữ tình nhưng lại giàu sự kiện:

 Quyền bình đẳng quyền chung nhân loại
Nền tự do ta lại về ta
Việt Nam riêng một nước nhà 
Việt Nam Dân chủ cộng hòa từ đây
Ai xâm phạm ra tay quyết giữ
Toàn dân ta nam nữ một lòng
Hợp quần sức mạnh vô song

 Nghe tôi nói có rõ không đồng bào

Với Tố Hữu, năm đó ông 25 tuổi. Những bài thơ đầu tay của ông khi ấy chưa in thành tập, chỉ lưu hành chuyền tay bí mật. Dưới mỗi bài, trên dòng ghi ngày tháng sáng tác là tên các nhà tù hoặc các xà lim. Khi đó, cùng với đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu tham gia lãnh đạo Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Thừa Thiên-Huế. Bài thơ "Huế tháng Tám" được viết trong cao trào tổng khởi nghĩa ở Huế, lúc cách mạng đang vận động Bảo Đại thoái vị. Bài thơ mở đầu bằng tâm sự người dân kinh đô hồi hộp đón chờ cách mạng, đón chờ lãnh tụ. Hồi đó, chính Tố Hữu cũng chưa được gặp Bác Hồ nên có thể thấy đây cũng chính là nỗi lòng nhà thơ:

Huế trầm mặc hôm nay sao khác khác
Những mắt huyền ngơ ngác hỏi thầm nhau
Chân nôn nao như khách đợi mong tàu
 Bước dò bước không biết sau hay trước?
Tim hồi hộp, vì sao? Ai hẹn ước?
Ai đang về? Dáng đó thấp hay cao?
Mắt sáng ngời như lửa hay như sao?
Người hay mộng? Ngoài vào hay trong tới?

Dân chúng nghe danh Nguyễn Ái Quốc nhiều hơn danh Hồ Chí Minh. Danh sau Bác mới dùng trong giấy tờ hộ thân khi đi Trung Quốc, sau Hội nghị Trung ương 8 ở Pác Bó. Còn danh trước, đồng bào trong nước rỉ tai nhau từ những ngày Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Pháp, Hồng Công, Trung Quốc. Lại nghe, hai danh ấy chỉ là một người. Thế thì phúc đức quá. Nhưng đã ai xác minh đâu.

Đất Huế được Gia Long, khi lên ngôi, chọn làm kinh đô, cho đến lúc đó đã được 143 năm với 13 đời vua. Vua đương thời, Bảo Đại, được Pháp mang về Pháp nuôi dạy từ bé, đào tạo thành một tay ăn chơi có tiếng. Ở bài thơ này, nhà vua được mô tả trong tư thế người cô độc rùng mình trên đỉnh cù lao cô đơn và lại biết nghĩ về tình thế trách nhiệm mình trước dân nước. Cách tạo không khí thơ cho bài rất xuất sắc và chính sách độ lượng của cách mạng đối với ông vua bất tài và ham hưởng lạc, quả có giúp nhà thơ trẻ mạnh dạn “trang điểm” cho ông ta:

Đức Kim Thượng đêm nay trong ngọc điện
Ngự lên lầu, trông lên cao xao xuyến
Muôn vì sao... Lạnh lẽo thấm hoàng bào
Người rùng mình, tưởng đứng đỉnh cù lao
Nỗi cô độc giữa gió triều biển động
Đôi gốc đại nghiêng nghiêng tàn lay bóng
Sầu thâm cung vờ vật dưới sân châu
Người đứng đây, trăm họ đang về đâu
Đình thần đó rầu rầu thân đá trắng
Quá khứ nặng đè xuống đầu cúi lặng
Một ngai vàng không thể thắng cả giang sơn!
Lòng muôn dân rần rật lửa căm hờn
Máu giải phóng đã sôi dòng nhân loại!
Người phải xuống, đêm nay, đêm chiến bại
Để toàn dân chiến thắng giữ ngôi son!
Người phải lui, cho dân tiến, nước còn
Dân là chủ, không làm nô lệ nữa!
Hãy mở mắt: Quanh hoàng cung là lửa
Đã dâng lên, ngập Huế đỏ cờ sao
Mở mắt trông: Trời đất bốn phương chào
Một dân tộc đã ào ào đứng dậy!
leftcenterrightdel

Một góc trưng bày ở Bảo tàng Tố Hữu. Ảnh: Tố Hữu Museum 

Sợ đoạn trích quá dài, tôi đã 3 lần ngắt trích, nhưng hơi văn ào ạt không ngắt nổi. Nhìn lại thì đây không còn là nội tâm hư cấu của ông Bảo Đại nữa mà là tiếng nói của nhân dân rồi. Cảm hứng say sưa, sức thuyết phục lớn lao. Tôi chắc có phần của bài thơ này mà ngày 30-8, tại sân Ngọ môn, Bảo Đại đã đọc chiếu thoái vị trước hàng vạn dân, trước sự tiếp nhận của phái đoàn Chính phủ lâm thời do ông Trần Huy Liệu dẫn đầu, từ Hà Nội vào và trước đại diện cách mạng của Huế.

Và chính giây phút ấy, Bảo Đại, hay đúng hơn có thể gọi là công dân Vĩnh Thụy, đã chính miệng nói một câu đáng giá nhất trong đời mình: Trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm đã trải qua bao điều cay đắng, Trẫm muốn được làm dân một nước tự do hơn là làm vua một nước bị trị. Từ nay Trẫm lấy làm sung sướng được là người dân tự do trong một nước độc lập.

Nhà thơ VŨ QUẦN PHƯƠNG