Thơ KIM DŨNG
Thơ Kim Dũng đến từ nhiều nguồn cảm hứng, mà trước hết là cảm hứng lịch sử, cảm hứng thế sự, cảm hứng với các văn nhân, thi nhân và sâu xa hơn là những đúc kết, triết lý về cõi nhân sinh được rút ra từ những gì thẳm sâu nhất để cho mình có được niềm tin và chỗ dựa. Đến nay, nhà thơ Kim Dũng đã xuất bản 10 tập thơ, 1 trường ca.
Nhà thơ Nguyễn Thị Mai chọn và giới thiệu
Hồn thơ Việt
Đất nước có một ngày Thơ Việt
Lá cờ Thơ-chim Lạc tượng hình
Bay lên từ đỉnh cao Nghĩa Lĩnh
Các Vua Hùng dựng nước buổi bình minh
Bốn ngàn năm bao cuộc chiến chinh
Đầy khí phách những câu thơ Việt
“Nam quốc sơn hà” dậy sông Như Nguyệt
Đánh cho quân giặc phải kinh hoàng
Nhớ Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn
Cảm ơn Chế Lan Viên câu thơ hào sảng
“Tổ quốc có bao giờ đẹp đến thế này chăng”?...
Trăng Nguyên tiêu sáng bừng rừng Việt Bắc
Bác ngồi thuyền sông Đáy làm thơ
Hồn lãnh tụ nhập vào hồn non nước
Sau những giờ bàn việc quân cơ...
Trăng Rằm soi dào dạt ý thơ
Đêm Việt Bắc lắng sâu hồn sông núi
Nghe trong veo mạch nguồn tiếng suối
Tiếng rì rào cây lá nảy chồi xuân
Đêm Nguyên tiêu vinh danh hồn thơ Việt
Đất nước có ngày mở hội Thơ Xuân
Chào cờ Thơ và Vầng trăng trong thơ Bác
Lồng lộng tung bay vang vọng tiếng thơ ngâm...
Người khắc thơ Hàn (*)
Tặng Dzũ Kha
Ngày lại ngày
Ông ngồi bên mộ Hàn
Khắc thơ Hàn bằng cây bút lửa
Những câu thơ như dòng máu ứa
Từ trái tim ông chảy xuống thơ Hàn
Du khách tham quan
Thắp nén tâm nhang viếng Hàn thi sĩ
Nhờ ông khắc bài thơ “Thôn Vĩ”
Và “Mùa xuân chín” làm quà
Cô sinh viên nhờ khắc thơ “Trăng”
“Trăng như ngọc” nhập hồn thi sĩ
Hàn yêu Cúc nên “Trồng hoa cúc”
Ngắm vàng hoa mỗi độ thu về
Bao năm rồi ông ngồi đây rồi nhỉ
Khắc thơ Hàn nắn nót từng câu
Cây bút lửa mang hồn thơ cảm
Gỗ vô tri cũng hóa bạn bầu...
Những đêm trăng sóng ru bờ Ghềnh Ráng
Ông ngồi bên thơ Hàn đối diện với trăng
Uống rượu trăng say rót xuống mộ Hàn
Thương thi sĩ tài hoa mệnh yểu
Nhưng thơ còn mãi với trần gian
Bao cô gái làng tôi tìm thơ Hàn đọc
Đợi “Mùa xuân chín” bước sang ngang...
(*) Nhà thơ Hàn Mặc Tử (1912-1940), phần mộ của ông ở Ghềnh Ráng (Quy Nhơn).
Lòng tay hình châu thổ
Lòng tay ta hình tam tứ giác
Mở ra miền châu thổ sông Hồng
Mồ hôi đẫm phù sa cày đảo
Cánh đồng thơ mê mải gieo trồng
Chữ nghĩa bơi như cá ngược dòng
Vượt qua bao bến bờ ghềnh thác
Mặc rong rêu bọt bèo rơm rác
Giữa đất trời thanh thản cánh buồm bay
Thật cuộc đời bóng ở bàn tay
Xấp ngửa lá bài đỏ đen may mắn
Bàn tay chìa ra, bàn tay lại nắm
Trước cửa Thiền xòe đón lá đa rơi
Bàn tay ta cày xáo toát mồ hôi
Những giọt chữ lọc sàng bao bể cát
Ta quen với phong trần đạm bạc
Mặc ai người mũ áo xông xênh
Bàn tay ta thiên phú đa tình
Say ấp ủ những hạt vàng mới lạ
Châu thổ lòng tay mà xa cách quá
Thơ với đời hỏi bạn tri âm...?
Giếng làng
Ta về soi nước giếng làng
Rêu phong bậc đá, ngỡ ngàng lá rơi
Giếng đây, gầu đứt dây rồi
Làm sao... vớt được nụ cười người xưa.
Thức với dòng sông
Nhà tôi nhìn ra ngã ba sông
Mỗi sáng mai hồng phù sa lấp lánh
Những cây buồm ngược xuôi mở cánh
Hoàng hôn về đỏ lửa bên sông
Năm hai mùa ngô lúa trổ bông
Bãi sa bồi ngàn dâu xanh thắm
Bao thế kỷ dòng sông bồi đắp
Đất mỡ màu hoa trái tốt tươi
Đường bến sông chúm chím hoa cười
Em gánh đôi mặt trời sóng sánh
Tôi vô tình-né vai em tránh
Thùng nước đầy té ướt, có sao đâu?
Tôi đợi em-trăng khuyết bên cầu
Bâng khuâng trước “Ngã ba Hạc Phú”(*)
“Dòng biếc lẫn dòng đào” hội tụ
Riêng em thì xa cách ngàn dâu!
Năm tháng đi qua, mái tóc điểm màu
Tôi mới biết rằng sông không ngủ
Đêm nay thức với dòng sông thiên phú
Chờ cánh buồm hát đón mặt trời lên...
(*) Bài Ngã ba Hạc Phú nổi tiếng của Tiến sĩ Nguyễn Bá Lân (1701-1785)
Lục bát Mường Lò
Bao lần điện thoại hẹn hò
Bạn mời lên với Mường Lò quê em
Đáp lời đã hẹn thì lên
Biết đâu may mắn cơ duyên với mình
Tôi người vốn ở thị thành
Muốn lên kết bạn rừng xanh, suối Giàng
Từ trong ký ức mơ màng
Thầm yêu một bóng áo chàm mộng mơ
Bây giờ gặp được nàng Thơ
Mường Lò em đến còn ngờ chiêm bao
Lạc nhau từ cõi mơ nào
Ước ao em đã nhập vào hồn tôi
Ngập ngừng môi chửa chạm môi
Trái tim đã đập bồi hồi lạ chưa
Tóc em bay rối gió đùa
Tay cầm tay ấm. Đũa giờ có đôi
Quản gì đường sá xa xôi
Việt Trì-Văn Chấn gần thôi. Rất gần
Chia tay dạ những tần ngần
Mường Lò lục bát gieo vần tặng em.
Rối nước Đền Hùng
Chợt hiện ra trước cửa Đền Hùng
Đêm rối nước giữa đầm Cổ Tích
Vai chen vai tiếng cười khúc khích
Tôi như ngập giữa biển người...
Vẫn cảnh nông gia cày cấy tự bao đời
Tiếng vặt, riệt trâu đi bì bõm
Câu ca dao trông trời thấp thỏm
Đồng cạn đồng sâu thời vụ nhịp nhàng
Thoảng đâu đây vị nếp hoa vàng
Nghe thậm thịch nhịp chày đôi giã gạo
Chiếc bánh ót Lang Liêu thơm thảo
Dâng tiến Vua cha công đức sinh thành
Trống chèo rung cong mái thủy đình
Câu ca bay bồng bềnh mặt nước
Những chàng trai áo the khăn lượt
Áo tứ thân cô gái thẹn thùng
Có gì đâu mà cứ ngập ngừng
Nón ba tầm nghiêng che khuôn mặt
Tình yêu đã thiết tha chân thật
Sao lời ca lại phải bay vòng?
Người đứng xem theo hình cánh cung
Hòa nhập với cảnh đời dân dã...
Giờ mới được nhìn nhau cho thỏa
Bõ những ngày chín đợi mười mong.
Minh họa: ANH KHOA