1. Tương xứng với tầm vóc cuộc kháng chiến vô cùng vĩ đại của dân tộc, văn học thời chống Mỹ, cứu nước đã tập trung làm rạng rỡ một tượng đài Việt Nam anh hùng, yêu hòa bình, lồng lộng trong bầu trời văn hóa nhân loại, tỏa ra ánh sáng chính nghĩa, tiên phong chống chủ nghĩa đế quốc. Ở phương diện hẹp hơn, bằng ngôn ngữ sử thi và cảm xúc trữ tình công dân, Phạm Tiến Duật-một chiến sĩ, nhà thơ đã điêu khắc tượng đài người lính lái xe sừng sững trên nền không gian Trường Sơn, để mãi tỏa sáng, góp phần khẳng định chân lý: Không có gì quý hơn độc lập, tự do!

Đường Trường Sơn dọc theo đất nước, cũng “đi dọc” theo cuộc kháng chiến, trở thành biểu tượng cho ý chí, quyết tâm, cũng là biểu tượng cho gian nan, khó khăn cần vượt qua trong cuộc hành trình cả dân tộc đi đến thống nhất: Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai (Tố Hữu).

leftcenterrightdel
Ảnh minh họa: PHẠM HÀ

Trong văn học thời đó, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lý tưởng yêu nước, tinh thần sử thi, trách nhiệm công dân thống nhất, hài hòa kết thành bài ca ra trận tuyệt đẹp, đúng như câu thơ của Phạm Tiến Duật: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm!”. Trở thành đối tượng thẩm mỹ của văn chương nói chung, theo lẽ tự nhiên, đường Trường Sơn “chạy thẳng vào tim” người chiến sĩ lái xe có tâm hồn thi sĩ.

2. Lòng dũng cảm, chất trẻ trung, tinh nghịch là chất lính riêng của lái xe Trường Sơn. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” lấy ngay chính giọng ngang tàng của nhân vật trữ tình miêu tả một hiện thực: Không có kính không phải vì xe không có kính/Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.

Không có tiếng bom hay hình ảnh bom rơi nhưng hiện rõ cái khốc liệt nơi chiến trường: Kính vỡ vì bom... Phải “rung”, “giật” rất nhiều, liên tục mới xảy ra sự tình như thế. Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Cũng chưa thấy gì “ghê gớm”, vì lính nào cũng có thể “ung dung” như vậy; là lính lái xe, tất nhiên phải “nhìn thẳng”. Nhưng hai câu thơ đã phần nào làm toát lên được phong thái ngạo nghễ, “trượng phu”.

Đến câu: Không có kính, ừ thì ướt áo/Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời/Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa/Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Ở khổ thơ trước, người lính vượt lên trên bom đạn thì khổ này cho thấy họ vượt qua cả sự thách thức của tự nhiên (Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời). Mà mưa rừng thì đúng là “tuôn”, là “xối”. Nhưng “vì miền Nam phía trước” nên “Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa”. Một ngữ khí từ “ừ” tự nhủ, một lời tự khuyên có vẻ phớt đời: “Chưa cần thay”, “mau khô thôi”. Đó là lời tự nói với mình, hướng vào trong, nhưng ý nghĩa thì bật toát ra ngoài: Đấy là sự quên mình!

Không có kính, ừ thì có bụi/Bụi phun tóc trắng như người già/Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc/Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. 

Thơ tự sự hay văn xuôi miêu tả, “ăn nhau” ở chi tiết. Một chi tiết “đắt” tái hiện cả một không gian. “Bụi” nhiều đến mức “phun tóc trắng”. Từ “phun” cho thấy độ đậm đặc của bụi. Giữa rừng mà bụi nhiều thế? Vì bom tọa độ rải xuống phá đường, hoặc vì quân ta phá đá mở đường. Lý do gì cũng cho thấy sự ác liệt vượt trên mức thông thường của chiến tranh. Người đọc dễ bỏ qua chi tiết ấy bởi bị hấp dẫn tới từ hành động “phì phèo” hút thuốc và âm thanh “cười ha ha” rất trẻ, chẳng thấy gì là chiến tranh. Cả người đọc, cả nhân vật, chẳng ai quan tâm gì tới “bụi”.

Chất ngang tàng, nghịch ngợm rõ hơn trong “Lửa đèn”, Phạm Tiến Duật kể chuyện các chàng lính bày trò “giả vờ” để “dụ” đám “trẻ con” Mỹ: Ta bật đèn pha ô tô trong chớp lòe ánh đạn/Rồi tắt đèn quay xe/Đánh lạc hướng giặc rồi ta lại lái xe đi... Không hề có “thơ”, bởi đó là lời của những người lính (ta) “bàn” với nhau về “trò chơi”. Sẵn cái chất hồn nhiên, khi ngồi trên cabin, người chiến sĩ nhìn đoàn xe, nhớ về ngày bé có trò “chơi u chơi âm”: Nơi tắt lửa là nơi in vết bánh ô tô/Những đoàn xe đi như không bao giờ hết/Chiếc sau nối chiếc trước ì ầm/Như đàn con trẻ chơi u chơi âm/Đứa này nối hơi đứa khác. Không có phẩm chất liên tưởng, không có những câu thơ ngộ nghĩnh này. Không có sự lạc quan, vượt lên hoàn cảnh đạn bom ác liệt, không có những câu thơ trong vắt như vậy. Đó là tín hiệu của chiến thắng.

3. Có lẽ câu thơ “Chỉ cần trong xe có một trái tim” trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” khái quát cao nhất về đức tính cống hiến, trách nhiệm, về phẩm chất nghệ sĩ, về tình đồng đội, về những yêu thương.

Bài “Nhớ” chỉ 4 câu nhưng Phạm Tiến Duật đã nói lên rất nhiều: Cái vết thương xoàng mà đi viện/Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo/Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến/Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.

Có loại thơ hay nhờ tứ. Bài thơ này có cái tứ độc đáo, chỉ có ở lính lái xe: Phải nằm viện nên rất sốt ruột vì hàng đang chờ. Hàng ở đây là vũ khí, lương thực, là quân tư trang... đưa vào miền Nam để đánh Mỹ. Nhiệm vụ quan trọng và thật vinh quang. Đang cần đến lái xe, thế mà lái xe phải đi viện, chỉ vì “cái vết thương xoàng”. Không nhiều chất thơ nhưng đặt trong hoàn cảnh ấy, tâm trạng ấy thì đó lại là thơ hay. Không hay ở lời mà hay ở tứ, ở cảnh. Chàng lính lái xe “nhớ” ở mọi tư thế, “nhớ” về mọi không gian, địa điểm quen thuộc. Một sự sốt ruột của một trách nhiệm lớn, một sự quên mình đáng kính trọng. Quên mình nên mới coi vết thương kia chỉ là “xoàng” thôi, tức coi cái quý giá nhất, điều đáng quan tâm nhất lúc này không phải là thân thể, mạng sống của mình mà là Tổ quốc, là đất nước, cụ thể hơn, đó là nhiệm vụ chuyển hàng.

Theo mỹ học tạo hình hiện đại, để tạo nên dải quang phổ lung linh, hấp dẫn, có độ tán sắc ánh sáng văn hóa rộng, một nguyên tắc kiến tạo tượng đài, phải là nơi gặp gỡ, tương tác giữa ánh hồi quang từ quá khứ và những ánh xạ của cuộc sống đương đại. Những ánh xạ vào tượng đài người lính lái xe là đồng đội, nhưng sâu đậm hơn là con đường và cô thanh niên xung phong. Cũng là lẽ tự nhiên, nhờ có những cô gái mở đường, xe mới đi được. Bài “Gửi em, cô thanh niên xung phong” trước hết là ca ngợi: Anh đã đi rất nhiều, rất nhiều/Những con đường như tình yêu mới mẻ/ Đất rất hồng và người rất trẻ...

Không có tình yêu thì không có những con đường ấy. Vì phải vượt qua bom đạn, mưa rừng và biết bao khó khăn khác. “Đất rất hồng” là nghĩa thực, chỉ đất đỏ bazan, cũng có thể bởi cái nhìn “hồng” tươi, lạc quan. “Người rất trẻ” rất thực, chắc cũng có cả cái nhìn “mơ”. Bên cạnh những câu rất thực, không thể thực hơn: Những đội làm đường hành quân trong đêm/Nào cuốc, nào choòng, xoong nồi xủng xoảng; là sự bừng sáng của hình ảnh “mơ”: Rực rỡ mặt đất bình minh. “Tình yêu mới mẻ” và “người rất trẻ” đã tạo ra "bình minh" ấy. Thì ra, tất cả đều phát sáng, phát ra “bình minh” để chiến thắng. Những câu thơ như vậy cũng phát sáng. Cạnh tượng đài người lính lái xe là tượng đài người thanh niên xung phong. Đúng ra là 3 tượng đài: Người lính, các cô gái, con đường cùng tỏa sáng, cho nhau, vào nhau, để cùng ánh lên vẻ đẹp của tất cả và cũng rạng ngời mỗi vẻ riêng. Thế nên một câu thơ của Phạm Tiến Duật sẽ đi vào “bảo tàng Trường Sơn”, trở thành “bảo vật”: Đường trong tim anh in những dấu chân. “Những dấu chân” các cô gái quên tuổi xuân vì đất nước sẽ in vào lịch sử!

4. Có một cặp đôi hình tượng không tách rời: Anh lên xe, trời đổ cơn mưa/Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ/Em xuống núi nắng về rực rỡ/Cái nhành cây gạt mối riêng tư ("Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây" - Phạm Tiến Duật). Dù không chung không gian, “anh lên xe”, “em xuống núi” nhưng luôn bên nhau vì nhiệm vụ và còn vì nhớ nhau. Chàng hình dung “Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ”, tức là đang nhớ. Nàng với “Cái nhành cây gạt mối riêng tư” cũng tức là đang giữ trong lòng “mối riêng tư”... Lịch sử sẽ giữ lại những câu thơ ấy.

Hẳn nhiên, có tiểu đội lái xe: Những chiếc xe từ trong bom rơi/Đã về đây họp thành tiểu đội/Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới/Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Nhưng cũng là một gia đình: Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời/Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy/Võng mắc chông chênh đường xe chạy/Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Gia đình này rất đặc biệt, bếp ăn dựng giữa trời, chắc là dựng nơi cung đường trên đỉnh núi, như một thách thức máy bay giặc. Ăn xong, mỗi người “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Có một nét nghĩa thực: Ngụy trang bằng cành lá cây xanh, xe lên cao, như để làm “trời xanh thêm”. Lại có thể hiểu theo nghĩa bóng: Như những hiệp sĩ cưỡi ngựa sắt, họ đang bay lên trời xanh. Lên cao như với được sao trời: Thấy sao trời và đột ngột cánh chim/ Như sa, như ùa vào buồng lái. Thực cũng là mộng. Đó là lãng mạn. Đó là lạc quan. Của riêng lính lái xe Trường Sơn.

Đại tá, PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ