Gọi là “hàng” nhưng chỉ có cái bàn, cái ghế nhựa tróc sơn cũ mèm, thêm cái ô to che mưa nắng. “Ôi dào, đồ lề đơn giản vậy, thuận tiện để bán mua, cũng tiện lợi để “chạy” khi các bác công quyền hỏi thăm ý mà!”. Một lần, Hưởng vừa lăm lăm tay dao pha thịt vừa phân bua với chị như thế. Người đàn bà gần bốn mươi, cũng trạc tuổi chị, nhưng có hơn hai mươi năm kinh nghiệm trong nghề bán buôn, lại ưa chuyện nên mỗi lần chị ghé qua là níu lấy kể lể... 

Hưởng quê tận Ba Vì nhưng ngày nào cũng “đều như vắt chanh” 5 giờ sáng là có mặt ở đầu phố nhà chị. Bất kể mưa hay nắng, 3 giờ sáng, cô cùng chồng trở dậy. Khi hai cái sọt trên “con” 82 đầy có ngọn thì cô được chuyển vị trí lên ngồi lọt thỏm giữa vòng tay lái của chồng, phía ấy có thêm hai cái làn với đủ các thứ bánh trái, giò chả, nem mọc... một cái cân đồng hồ mà cô khoe là chính xác đến từng mi-li-gam. Có lần chị thắc mắc với Hưởng, sao lại có thể ngồi như thế mà chịu được, thì cô nhướn cặp mắt thiếu ngủ quặc lại: “Ô, được quá ý chứ! Em quanh năm ngày tháng ngồi vậy, chả làm sao cả! Hi hi...”. Hưởng cười to, để lộ hàm răng trắng bóng, đều tăm tắp. Rồi Hưởng bảo đôi lần cũng muốn về chợ gần cho đỡ công đi lại, nhưng mà bao năm khách quen tên, biết tiếng, giờ làm lại từ đầu, cứ thấy sao sao ấy... Mà thực tình bán ở chợ phố cũng lời hơn cái chợ quê nghèo của cô. Vậy là lại thôi! Vất vả thế mà lúc nào Hưởng cũng vô tư. Cái vô tư lộ ra trên đuôi mắt, khóe miệng lúc nào cũng như đang cười, giọng nói oang oang đi qua 3 phố còn nghe tiếng. Có lẽ vì thế mà nhà Hưởng bao giờ cũng đắt hàng.

leftcenterrightdel
Ảnh minh họa

Nhưng không chỉ có nhà Hưởng, chị nhẩm tính sơ sơ, đầu con phố nhỏ có hơn chục mét vuông mà chen chúc đến mấy hàng cua, cá, gà, bò, dăm hàng bún, bánh... Mà nhà nào cũng “đắt như tôm tươi”. Vì có dịp dạo qua chợ muộn, mọi người sẽ gặp vài cô hàng cá, hàng thịt tụm ba, tụm bảy, chuyện trò hỉ hả bên những cái mẹt trống rỗng, vài con dao bầu nhọn hoắt nằm chỏng chơ bên cạnh...

Chợ tạm hình thành từ tinh mơ đến gần trưa, thu vào lòng nó mấy chục nhân khẩu ngoại tỉnh và ven đô. Và tất nhiên nó không được cấp phép. Thi thoảng lực lượng chức năng cũng “nhớ đến” mà ra quân chấn chỉnh. Nhiều lần chị gặp nhà Hưởng, nhà Mai hò nhau chạy “bán sống bán chết” vào một ngóc ngách nào đó. Cũng đôi lần thấy Hưởng níu vạt áo của một anh công vụ xin lại cái bàn pha thịt, cái ghế vênh chân. Rồi đâu lại hoàn đó. Vì lực lượng chức năng dường như không thể làm xuể. Ở cái thành phố gần 8 triệu dân này, có ai tính được hết những cái “chợ tạm” có thể mọc lên ở bất cứ khu đất trống, hè phố chật nào. Dẹp chỗ này nó lại mọc lên ở chỗ kia, nếu không muốn nói là chỉ dẹp được vài phút đồng hồ...

Chị chợt mỉm cười khi nghiệm ra rằng, tập tính, thói quen của dân mình đã “nuôi dưỡng” những cái chợ này. Có cầu ắt có cung là vậy! Vì thế mà bao trung tâm thương mại, chợ phố-những cao ốc hoành tráng, bắt mắt nhưng vẫn vắng khách bởi không chỉ túi tiền mà có đôi lúc chưa được tiện lợi với người dân. Còn chợ tạm, chợ xép thì lại phát triển tỷ lệ thuận với những khu công nghiệp, khu dân cư mọc lên như nấm của thời hội nhập. Và những phận người như Hưởng, như Mai... sẽ sống bên lề tốc độ đô thị hóa, là một phần tất yếu của “chợ tạm ở phố”!

PHẠM THU THỦY