Niềm tin được ví như chiếc cầu nối giữa hiểu biết và hành động. Tùy từng cách tiếp cận mà có cách phân chia niềm tin thành từng loại khác nhau. Trong đó, niềm tin chính trị, niềm tin vào pháp luật, công bằng xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là quan trọng nhất đối với mỗi người Việt Nam vì nó có tính bao trùm, chi phối đến niềm tin khác cùng hành động của chủ thể.

Karl Marx định nghĩa về con người: Trong tính hiện thực của nó, con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Điều đó cũng đúng với niềm tin được hình thành, nuôi dưỡng và thử thách trong chính đời sống xã hội. Niềm tin của mỗi người, mỗi tập thể luôn chịu tác động của tri thức, tình cảm, lý trí và môi trường xung quanh.

Ngày nay, trong điều kiện khoa học-công nghệ, internet phát triển như vũ bão, thông tin tràn ngập đời sống khiến niềm tin của mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước bị chi phối ở các mức độ khác nhau.

Nhìn ra các nước trong khu vực và thế giới, tình trạng xung đột, chiến tranh, nghèo đói, thiên tai, bệnh dịch, bất ổn chính trị; sự xuống dốc về kinh tế, sự bất ổn của thị trường, chiến tranh thương mại... trở thành áp lực, gây nhiều âu lo, ảnh hưởng đến sự bền vững của niềm tin.

Cùng lúc, các yếu tố nội sinh cũng tác động mạnh đến niềm tin. Đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, chênh lệch giàu nghèo gia tăng, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thực sự gương mẫu, còn biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lợi ích nhóm... Điều đó khiến niềm tin phần nào bị tổn thương, xuất hiện tâm lý hoang mang, bi quan, thậm chí mất phương hướng. Đây là điều nguy hiểm nhất đối với sức mạnh đoàn kết.

Đáng lo hơn, các thế lực thù địch lợi dụng chính những “khe hở niềm tin” ấy để thúc đẩy “diễn biến hòa bình”, gieo rắc hoài nghi, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Không ít cá nhân do thiếu bản lĩnh chính trị và nền tảng tư tưởng vững vàng đã bị lôi kéo, lợi dụng, thậm chí quay lưng lại với Tổ quốc. Đây không chỉ là biểu hiện của khủng hoảng niềm tin mà còn là vấn đề an ninh tư tưởng-văn hóa của thời đại.

Hậu quả gây ra cho xã hội do khủng hoảng niềm tin rất khó định lượng. Biểu hiện rõ nhất là một số bạn trẻ nghe theo xúi giục mà nhận lời thế lực phản động ra nước ngoài để được đào tạo rồi quay trở lại chống phá Đảng, Nhà nước. Đã có nhiều "hạt nhân" quay về Việt Nam và tìm mọi cách chống phá đất nước. Điển hình trong số đó là Phạm Thị Đoan Trang, Huỳnh Thục Vy, Trịnh Hữu Long, Đường Văn Thái... Nhiều bạn trẻ đã đi theo tạo ra "những dòng nước ngược", bị thế lực thù địch ngoài nước cổ xúy, trở thành những "nhà dân chủ", "nhà báo tự do" giả hiệu... để rồi tự đánh mất tương lai tươi sáng. 

leftcenterrightdel

Niềm tin giúp con người nêu cao ý chí và vượt qua sóng gió. (Trong ảnh: Khối nữ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc luyện tập phục vụ diễu binh, diễu hành). Ảnh: TUẤN HUY 

Để niềm tin thực sự trở thành động lực, xung lực trong công tác, trong đời sống xã hội, mỗi người cần nhìn lại chính mình và cộng đồng để xây dựng niềm tin đúng đắn dựa trên 3 vấn đề cơ bản có tính trụ cột.

Trước hết, phải khôi phục niềm tin từ nhận thức. Bởi chỉ khi hiểu rõ nguồn gốc, bản chất và giá trị của con đường mình đi, con người mới thật sự vững tâm mà bước tiếp. Con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn không phải là sự ngẫu nhiên của lịch sử, mà là kết tinh của trí tuệ, của lòng yêu nước và của máu xương hàng triệu con người trong suốt thế kỷ 20.

Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, dân tộc Việt Nam lần đầu đứng dậy làm chủ vận mệnh của mình, chấm dứt gần trăm năm bị đô hộ. Đó không chỉ là thắng lợi của một cuộc khởi nghĩa, mà là minh chứng sống động cho sức mạnh của niềm tin vào lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Niềm tin “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” được các thế hệ người Việt mang trong tim như lời thề giản dị mà thiêng liêng để vượt qua 9 năm trường kỳ chống thực dân Pháp, vượt qua hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để đi đến thắng lợi huy hoàng. 

Lịch sử đã chứng minh: Mỗi khi dân tộc ta giữ vững niềm tin vào Đảng, vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa thì mọi thử thách đều vượt qua. Sau chiến tranh, đất nước đứng lên từ đống tro tàn, đói nghèo, lạc hậu. Đổi mới năm 1986 là minh chứng sinh động cho niềm tin dựa trên nhận thức sáng suốt. Khi Đảng dám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, điều chỉnh đường lối phát triển để phù hợp quy luật khách quan, niềm tin của nhân dân lại được thắp sáng. Từ đó, Việt Nam vượt qua khủng hoảng, vươn lên trở thành một trong những quốc gia phát triển năng động nhất khu vực.

Hôm nay, trong thời kỳ hội nhập và chuyển đổi số, niềm tin từ nhận thức càng cần được củng cố bằng tri thức mới và tư duy phản biện khoa học. Mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, cần hiểu rằng con đường xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam lựa chọn không phải là giáo điều mà là con đường phát triển bền vững, hướng tới con người, vừa vì dân tộc, vừa vì tiến bộ nhân loại. Niềm tin ấy được kiểm chứng bằng kết quả: Đời sống nhân dân ngày một cải thiện, vị thế quốc gia ngày càng vững vàng trên trường quốc tế.

Nhận thức càng sâu, niềm tin càng sáng. Một thanh niên hiểu rõ lịch sử dân tộc, hiểu rằng mỗi tấc đất, mỗi dòng sông, mỗi con đường đều thấm mồ hôi, nước mắt của những người đi trước, sẽ không dễ lung lay trước luận điệu xuyên tạc. Một người cán bộ thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về “lấy dân làm gốc”, sẽ không bao giờ để lợi ích cá nhân làm phai nhạt lý tưởng. Khi nhận thức đã vững, niềm tin không còn là cảm xúc mà là bản lĩnh, thứ kim chỉ nam giúp con người đứng thẳng trước bão dông.

 Song song với khôi phục nhận thức, mỗi người trong xã hội cần nuôi dưỡng niềm tin bằng hành động cụ thể, bằng lao động trung thực, sáng tạo, cống hiến vì lợi ích chung; bằng việc đấu tranh với cái xấu, cái sai, cả trên mạng và ngoài đời. Vì hành động chính là nguồn năng lượng giúp niềm tin cháy sáng, trở thành động lực sống và sức mạnh sáng tạo.

Trong suốt hành trình cách mạng, dân tộc ta luôn biến niềm tin vào Đảng thành hành động cụ thể. Người công nhân bám máy trong những năm khó khăn, nhà khoa học miệt mài nghiên cứu, chiến sĩ biên cương canh giữ phên giậu Tổ quốc... Tất cả đều hành động bằng niềm tin.

Ngày nay, nuôi dưỡng niềm tin là làm việc có trách nhiệm, nói đi đôi với làm, dám chịu trách nhiệm và sống tử tế. Đó là người thầy vùng cao bám lớp, chiến sĩ đảo xa giữ biển, cán bộ trung thực, sinh viên tình nguyện giúp dân.

Niềm tin không phải khái niệm trừu tượng mà là thực thể sống trong từng việc làm cụ thể. Khi con người sống trung thực, tận tụy và dấn thân vì điều mình tin tưởng, lý tưởng của Đảng sẽ trở nên hữu hình trong đời sống và rồi niềm tin ấy sẽ bền vững, lan tỏa mãi.

Điểm cuối cùng là niềm tin phải được củng cố bằng nêu gương. Không có bài diễn thuyết nào lay động lòng người bằng hình ảnh của một cán bộ sống liêm chính, một người lãnh đạo biết lắng nghe dân, dám chịu trách nhiệm, dám làm điều đúng dù khó khăn. Trong những năm kháng chiến, chính tấm gương giản dị, từng lời dạy ân cần của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành “ngọn đèn không tắt” soi đường cho cả dân tộc. Hôm nay, giữa thời kỳ hội nhập, điều dân mong là hành động tử tế và trong sáng từ những người được giao trọng trách dẫn đạo và lãnh đạo.

Khi cán bộ nêu gương, đảng viên giữ mình, người dân nhìn thấy niềm tin của mình được phản chiếu và nhân lên. Bởi niềm tin, xét đến cùng, không phải điều ta nói với người khác, mà là cách ta sống để người khác còn muốn tin. Và chỉ khi lý tưởng, hành động và tấm gương sống hòa làm một thì niềm tin vào Đảng, vào con đường mà dân tộc đã chọn mới thật sự trở thành sức mạnh trường tồn của Việt Nam.

Niềm tin là cội nguồn của mọi sức mạnh, là sợi chỉ đỏ nối quá khứ, hiện tại và tương lai dân tộc. Khi niềm tin bắt rễ từ nhận thức đúng, được nuôi dưỡng bằng hành động chân thành và củng cố qua những tấm gương sáng, nó trở thành năng lượng tinh thần vô tận. Trong mọi chặng đường cách mạng, Đảng ta luôn dựa vào niềm tin của nhân dân để vượt qua thử thách. Giữ vững và bồi đắp niềm tin hôm nay chính là giữ gìn mạch sống của dân tộc để Việt Nam mãi tiến bước trong ánh sáng của lý tưởng và khát vọng xây dựng đất nước hùng cường.

Đại tá TRẦN ANH HẢI