Trung thu là tết của trẻ em phương Đông, theo truyền thống ngàn đời nay, không chỉ với nền văn minh lúa nước, mà ở nhiều nước châu Á, kể cả Hàn Quốc, Nhật Bản (Đông Á).
Đi vào thơ ca, nhạc họa, Trung thu với tiêu điểm là vầng trăng tròn tỏa sáng từ lâu đã trở thành dịp đoàn viên sum vầy, hội tụ của các gia đình, trẻ em; các ngõ xóm, thôn làng, khu tập thể v.v.. Nếu như Tết Nguyên đán, người lớn phải đối diện với nhiều lo toan, nhất là tiền: Nào là tu sửa, trang trí nhà cửa, mua hoa, cây cảnh, sắm đồ, quà biếu, mừng tuổi... thì Tết Trung thu thanh nhẹ mọi bề. Mâm cỗ bày ở sân nhỏ trước nhà hay sân chơi rộng lớn đều không thể thiếu bánh nướng, bánh dẻo nhiều hình (khuôn bánh và hình nổi trên mặt bánh) và kích cỡ, rồi các loại trái cây như bưởi, na, hồng, nhãn, quả thị vàng bày hoặc cầm trên tay hít hà hương thơm ngọt. Ngày nay, khi công nghệ sinh học đã can thiệp và thành công trong việc tạo ra quả trái mùa lai ghép với đa dạng kích thước, màu sắc thì với người miền Bắc, tập quán “mùa nào thức ấy” vẫn hiển hiện qua các loài hoa trái dâng cúng tổ tiên, trời phật hay thưởng thức theo mùa. Như cốm, bưởi có cả khi đương xuân, hạ, dầu mặc định vẫn là thức quà mùa thu.
Mùa thời tiết đẹp nhất, trời cao, trong nhất, mùa trăng sáng nhất, cũng là mùa gắn với bao lịch sử và truyền thuyết.
Cô Tấm đã đi vào cổ tích nhớ thương như những xe đạp rong khắp ngõ phố Hà Nội lâu nay vắng thị. Trẻ con thường tham ăn, háu ăn, nhưng lúc là bé con, tôi vẫn luôn nâng niu quả thị, nếu có cành lá cây thì càng gượng nhẹ giữ gìn. Vào thời buổi thực dụng lấn át này, phải chăng thị là quả cho hương là chính, ít người ăn, hiệu quả kinh tế không cao nên không được trồng rộng rãi. Những cây thị lâu năm còn bị chặt bỏ. Chỉ còn vài cây thị cổ, không đủ cho những cô Tấm trở về. Tôi thường có quả thị đầu mùa khi đến thăm tư gia bên Hồ Tây của nhà khoa học xuất sắc, kỹ sư hóa thực phẩm Nguyễn Thị Anh Nhân, “mẹ đẻ” bia Halida. Bà coi trọng thức quà tự nhiên, ăn uống thanh tao, lành sạch. Bà Anh Nhân vẫn chế biến dấm hồng quanh năm, muối hành hồng dịp Tết. Như bà tiên hiền hậu luôn sống vị tha, yêu thương, giúp đỡ những người khó khăn, song nhà khoa học ấy không thể “phù phép giấc mơ hồng” cho những đứa trẻ ngày nay, kể cả cháu bà, biết nhớ quả thị và cô Tấm.
Mùa thu cổ tích vẫn còn trong hoài niệm truyền đời tới trẻ nhỏ thời nay. Múi bưởi lộn trái ra, làm thành hình chú chó, thỏ bông lông trắng, các nguyên liệu tự nhiên từ trái cây tạo hình các con vật. Nữ công ấy là nét đẹp nhân văn quý báu. Ở xã hội, thời đại nào, con người và loài vật cũng đều nên gần gũi, là bạn của nhau thì thế giới này mới cân bằng, chan hòa, bền vững.
Hạt bưởi phơi khô, xâu dây thép đốt khi rước đèn, gõ trống, múa lân. Bây giờ trẻ em nông thôn cũng không phải nơi nào cũng còn những cánh đồng, bãi cỏ để thả diều, ngắm trăng sao mơ mộng. Trẻ con thành phố thiếu sân chơi, các cậu bé thường phải đá bóng trong ngõ, đường đi và chẳng thể triển khai “bóng đá trong nhà” vì nhà chật hẹp.
    |
 |
Trẻ em học làm bánh nướng, bánh dẻo tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Ảnh: MINH THÀNH |
Rừng bê-tông nóng rực hiệu ứng nhà kính, khó thấy pháo hoa, huống hồ ngắm chị Hằng, chú Cuội. Ông Thần Nông chăn đàn sao trên Ngân Hà, vung gậy thần cho ngàn tinh tú lung linh. Hằng Nga bế Thỏ Ngọc trên cung Quảng Hàn theo tích Trung Hoa, hay cung Hằng vừa có chị Hằng, vừa có chú Cuội ngồi gốc đa của truyện dân gian nước Việt ta, đều cất giữ những ngưỡng vọng, ước mơ, niềm tin.
Tết Trung thu của tôi, 30 năm trước trở lại, là những chiếc bánh dẻo, bánh nướng hình vuông mà Công đoàn cơ quan bố mẹ tặng, phần thưởng theo giấy khen của năm học trước. Chỉ có bánh nhân truyền thống. Trung thu bây giờ, các ki-ốt bánh được mở bán trước hơn tháng, mẫu mã đẹp, đa dạng, nhân bánh phong phú với đậu đỏ, trà xanh, giăm bông... cả chục thương hiệu: Kinh Đô, Hữu Nghị, Malays, Madame Hương..., rồi một số hãng bánh ngọt cũng làm bánh Trung thu. Vậy mà tôi lại ngắm biển hiệu Hải Châu, Hải Hà, nhớ thời bánh kẹo ít ỏi hiếm hoi thời bao cấp và sau bao cấp.
Tết đi liền hội tụ, vui chơi, những món ăn đặc thù. 1-6 là ngày Quốc tế Thiếu nhi, có thể coi là Tết Thiếu nhi toàn thế giới, song Tết Trung thu mới là tết đích thực của trẻ em Việt Nam. Tết cũng là dịp báo hiếu, quan tâm đến người già, trẻ nhỏ, san sẻ với những mảnh đời thua thiệt, khó nghèo, thiếu thốn. Mâm cỗ Trung thu được Công đoàn, tổ dân phố, các đoàn thể, doanh nghiệp tổ chức cho các cháu tại các khu tập thể ở thành phố, khu dân cư của công nhân, người lao động, các sân chơi, sân kho hợp tác. Trăng tròn tỏa sáng muôn nơi, phổ sáng không phân biệt. Trăng thành nguồn cảm hứng, sự trông đợi, nơi gửi gắm những ước mơ. Tết Trung thu là dịp phô bày nhiều món đồ chơi thủ công làm từ tre, gỗ, các loại đèn ông sao, kéo quân, đèn lồng. Phố Hàng Mã, một phố cổ truyền thống thuộc quận Hoàn Kiếm (Hà Nội), trăm năm nay bán vàng mã, đồ chơi Trung thu. Ở thời Cách mạng công nghiệp 4.0, trẻ con thiếu sân chơi, ít thời gian nghỉ hè, được chơi với chúng bạn, nhiều cha mẹ “phó thác sự ổn định” của con bằng cách để mặc chúng “cắm đầu” vào iPhone, iPad, mê mải với thế giới ảo.
Dù thế giới ngày nay ngập thiết bị thông minh nhưng đâu thể chế tạo, nhân lên xúc cảm, và Trung thu sẽ không “ra hồn” nếu thiếu tiếng trống, những đoàn múa lân, rước đèn rộn rã. Bởi thế, đón đêm rằm đặc biệt nhất là trong năm, các khách sạn, siêu thị lớn nhất nước ta lại coi việc tổ chức Tết Trung thu là sự kiện quan trọng. Do điều kiện, không ít nơi sắp xếp phá cỗ trước một hôm, như bánh nướng, bánh dẻo có thể ăn trước cả tháng hoặc quanh năm, song ý nghĩa nhất vẫn là chính rằm tháng Tám. Đèn ông sao, biểu tượng cho Tết Trung thu, theo truyền thuyết, là do tổ tiên “hái” sao từ trên trời cao tặng trẻ nhỏ. Ở khách sạn thượng hạng J.W.Marriott ven đô (số 8, phố Đỗ Đức Dục, quận Nam Từ Liêm, TP Hà Nội), nơi cựu Tổng thống Mỹ B.Obama từng lưu trú, tiệc Trung thu có giá 1,5 triệu đồng/suất. Ở khách sạn hạng nhất Hà Nội-Métropole, Đêm hội Trăng rằm diễn ra từ tối 25-8 (trước 31 ngày), khóa học làm bánh Trung thu tại đây chỉ tổ chức trong ngày 9-9, giá 1,2 triệu đồng/học viên. Du khách quốc tế đến Việt Nam dịp tết truyền thống này, họ đều trân trọng, hào hứng hòa mình vào sự kiện thú vị quý báu ấy.
Trung thu cho mọi người lớn được trở về tuổi thơ. Khi đưa các con đi mua đồ chơi, phá cỗ, hòa mình vào lễ hội rước đèn Trung thu, những khát vọng của tôi thuở nào vẫn còn cháy sáng, lại bừng sáng trong mắt cười, miệng reo của các con. Theo nhà dân tộc học, GS, TS Nguyễn Văn Huyên (1905-1975), Tết Trung thu còn là dịp hò hẹn của lứa đôi, là tết của khát vọng đỗ đạt (qua trò chơi tiến sĩ giấy).
Trong tác phẩm về Tết Trung thu in trên Tạp chí Đông Dương năm 1942, GS Nguyễn Văn Huyên viết: “Rồng vẫn được coi là kẻ ban phát ân huệ và hạnh phúc. Mọi người dùng hình ảnh nó để tạo nên mưa thuận gió hòa. Đôi khi người ta vẽ nó ôm một quả cầu, và bức tranh được gọi là “rồng vờn ngọc”. Hòn ngọc này là biểu tượng của mây và sấm sét. Và toàn bộ tranh có lẽ miêu tả một huyền thoại cổ về dông bão. Mùa xuân, người ta đôi khi mang rồng đi trong các đám rước thần. Nó phải đóng góp cho sự thành công của vụ lúa chiêm. Nhưng hội rồng thật sự là vào Trung thu. Nó phải bảo vệ các vụ gặt lớn tháng Mười. Đêm rằm tháng Tám ta, người ta long trọng rước rồng qua các phố, đi trước là những lá cờ ngũ sắc, những đèn lồng hình hoa quả, tôm cá hay những vật quý, những tấm biển sáng với hàng chữ “Hoàng long thịnh thế” (mong rồng vàng làm cho cuộc sống phồn thịnh) hay “Thiên hạ thái bình”. Bằng những điệu múa rồng và sư tử như vậy, người ta tạo ra cho cả nước những trận mưa tốt lành. Trung thu, tết của mặt trăng, đồng thời là tết dạm hỏi, lúc cả nam và nữ đều tìm cách làm vừa ý người khác, tìm thấy trong đám đông người bạn đời tương lai của mình. Tết Trung thu, trong một quá trình diễn biến lâu dài của tư tưởng và phong tục, đã trở thành ngày hội lớn của tuổi trẻ, trong đó trai gái gặp gỡ nhau, hát đối đáp giữa các đám đông và dưới ánh trăng. Họ trao cho nhau những quà tặng gồm quạt, vòng tay là những vật làm tin. Họ cùng nhau nhai trầu, là thứ ở nước này có giá trị giao ước. Những lời thề thốt được trao đổi trịnh trọng trước ánh trăng, rực rỡ xuất hiện uy nghi như một vị thần chứng giám. Cùng với phong tục trở nên tinh tế hơn, với sự phát triển của nền văn hóa cổ điển và sự tỏa sáng của ý thức hệ Nho giáo chính thống, các nghệ sĩ đã biến Tết Trung thu thành một cái tết ngắm và thưởng trăng. Cả những con cá chép, soi mình trong ánh trăng dưới đáy nước hoàn toàn trong trẻo vào tiết Trung thu, đối với họ là biểu tượng của sự thi đỗ... Trung thu ở nước Việt Nam thành một ngày tết mang tính chất phức tạp thú vị, đến nỗi cũng như tất cả các lễ hội có đặc tính dân gian khác, nó làm cho ai cũng quan tâm và sung sướng, bất kể họ thuộc giai tầng nào hay lứa tuổi nào trong nước”.
VI THÙY LINH