Sau một ngày ròng rã cuốc bộ hơn ba chục cây số dưới trời nắng gắt, Trung đội 5 về tới bản Noong Bua. Đây là bản khá trù phú nằm sát Đường 231, giáp ranh giữa phần đất của cao nguyên Bolaven và bình nguyên Saravane.
Tôi là người mệt nhất trong trung đội vì bị sốt rét từ hôm trước. Ba chục cây số hành quân cùng trung đội mà đắng miệng không ăn được, chỉ uống nước. Mệt nên tôi đi tay không, còn ba lô, súng đạn phải nhờ đồng đội mang giúp. Chiều tối tới bản Noong Bua, chúng tôi vào ở nhờ trong những nhà dân mà tuần trước đó, ban chỉ huy đại đội đã ở. Tối hôm ấy, anh em nấu cơm, nấu cháo đường cho tôi mà tôi cũng chỉ gắng ăn được lưng bát. Đêm ngủ li bì, chân tay rã rời.
Đường về nơi hội quân của đại đội còn hơn trăm cây số, phải 4 ngày hành quân căng thẳng nữa. Biết tôi không thể đủ sức đi theo cùng đơn vị, anh Dũng, Trung đội trưởng quyết định gửi tôi lại bản chờ khi nào có xe ô tô của Trung đoàn vào chở gạo thì đón tôi về. Tại bản Noong Bua này, còn kho gạo hơn hai tấn của tiểu đoàn. Không có y tá, cũng không thể để lại thêm một người trông tôi vì quân số cả Trung đội lúc này chỉ có 9 người nên phải nhờ dân. Thế là tôi ở lại trong trạng thái vẫn sốt và mệt, chân tay như đi mượn.
    |
 |
Các vườn cà phê được người dân Lào trồng ngay cạnh nơi ở. Ảnh: CÔNG VŨ
|
Gia đình tôi ở nhờ có ông bà chủ và một cô con gái. Anh Dũng nói chuyện thế nào mà cô gái đồng ý chăm sóc tôi. Bun Tha Li là tên cô gái, còn ông bà chủ thì tôi không biết tên, cứ "phò", "me" mà gọi. Thuốc tây không có, Tha Li cho tôi uống một thứ thuốc lá gì đó. Tôi cố uống thứ thuốc đăng đắng này và ăn để chóng khỏi cũng là không phụ lòng Tha Li.
Ngày đầu tôi được ăn cháo hành. Tôi cố chậm rãi ăn hết từng thìa cháo Tha Li xúc bón cho tôi và nhìn cô ấy với ánh mắt biết ơn, thầm nghĩ tới bát cháo hành lúc ốm ở nhà mẹ nấu. Suốt hai ngày liền, Tha Li phải bón cháo cho tôi như thế, ân cần như một người em gái.
Tha Li biết rất nhiều tiếng Việt chứ không chỉ có vài câu nói đơn giản khi dỗ tôi ăn cháo và uống thuốc. Cô ấy từng được theo học một lớp y tá do Bộ đội Việt Nam dạy cho thiếu nữ Lào ở các bản vùng Saravane hơn một năm trước. Thế là bên tôi bây giờ có một y tá Tha Li chăm sóc và làm bạn. Chúng tôi nói chuyện với nhau được nhiều hơn.
Tôi khỏi sốt và bình phục lại sau hai ngày được Tha Li chăm sóc. Ngồi bên cửa sổ nhà sàn, tôi hay ngắm nhìn Tha Li làm việc. Ngắm tự nhiên vì thái độ của Tha Li cũng rất cởi mở. Cô gái Lào vùng bán cao nguyên này có nước da trắng đẹp. Váy áo của cô ấy không cầu kỳ nhưng tôi thấy thật đẹp. Khi xuống dưới đất, Tha Li đi đôi dép Thái Lan xỏ ngón, lên trên nhà thì đi chân đất, để lộ bắp chân trắng ngần dưới chiếc váy dệt kiểu thổ cẩm nhưng không quá cầu kỳ. Chiếc áo trắng có thêu hoa thưa quanh cổ là loại áo cộc tay và ngắn, hơi nhướng người lên là hở một phần bụng. Đôi khi Tha Li chỉ mặc có một cái áo con bó sát mà để vai trần. Tất cả những hình ảnh đó gây ấn tượng rất mạnh trong tôi. Lòng xao xuyến trộn lẫn giữa lòng biết ơn được chăm sóc và sự mến thương rất khó diễn tả bằng lời.
Sang ngày thứ ba, tôi đã có thể chậm rãi cùng Tha Li dạo chơi loanh quanh gần bản. Chịu khó vận động cho mau trở lại trạng thái sức khỏe bình thường là điều cần thiết.
Nắng nhẹ, đường khô, hai chúng tôi đi dạo trong các con đường nhỏ xen giữa những hàng cà phê. Tha Li kể chuyện về mình thì ít mà hỏi chuyện tôi lại rất nhiều. Tôi kể cho Tha Li nghe về cuộc sống của gia đình mình ở Việt Nam, chuyện học hành trước khi đi bộ đội. Tha Li luôn hỏi tôi: “Con gái Việt Nam đẹp lắm phải không?” và chuyện trước khi đi bộ đội, tôi đã có người yêu chưa. Chuyện tôi chưa có bạn gái chờ đợi ở nhà làm cho Tha Li có vẻ thích thú.
Tha Li có vẻ mến tôi. Có lẽ đây là điều may mắn và hạnh phúc cho bộ đội tình nguyện Việt Nam khi được người dân Lào rất quý và hết lòng giúp đỡ.
Đi dưới vườn cà phê, tôi bảo với Tha Li rằng, vào tới cao nguyên Bolaven này, bộ đội chúng tôi mới được uống cà phê và rất thích. Đến khi nghe tôi nói đã chục tháng nay chưa được uống cà phê, lại biết tôi còn gói đường nhỏ anh Dũng để lại cho, Tha Li ngoảnh sang nhìn tôi cười:
- Chúng mình cùng làm cà phê để uống nhé.
- Tha Li biết làm cà phê uống à? Anh đã qua nhiều bản vùng này, chưa thấy ai tự làm cà phê để uống bao giờ.
- Em biết. Các anh bộ đội Việt Nam dạy đấy.
Tha Li dừng lại một chút rồi nói thêm từng từ trong tiếng cười: Cà phê bít tất.
Nghe thế thì tôi cũng phải bật cười rồi như vô tình nắm lấy tay Tha Li. Tha Li vung vẩy tay trong tay tôi nhưng không rút ra, cười rất vui.
Chiều hôm đó, Tha Li đưa tôi vào vườn nhặt hạt cà phê. Toàn hạt cà phê khô đã tróc trơ nhân. Đem về chà xát lại, nhân cà phê phải đem rang qua 3 lửa. Mỗi lửa rang, khói mù mịt như cháy nhà. Hạt cà phê giã ra không có rây mịn nên phải đun kiểu "bít tất". Tối hôm ấy, tôi và Tha Li cùng uống cà phê trên nhà sàn cùng phò, me của cô. Ly cà phê của Tha Li làm ngon tuyệt. Qua ánh sáng của bếp lửa chập chờn, tôi vẫn nhận ra ánh mắt long lanh và thật vui của Tha Li khi nhìn sang tôi.
Ngày thứ tư, Tha Li đưa tôi đi chơi nhiều nơi, ra bờ suối, vào cánh rừng gần bản. Tình cảm của hai đứa ngày càng thân thiết và có phần quyến luyến, nhưng chúng tôi vẫn hết sức tôn trọng nhau. Tôi giữ tình cảm thân thiết nhưng đúng mực, có lẽ vì thế mà Tha Li càng tỏ ra quý mến tôi hơn.
Chiều ngày thứ năm, xe ô tô vận tải của Trung đoàn tới bản Noong Bua. Còn ngày cuối cùng nên tôi và Tha Li chỉ chơi quanh quẩn ở nhà. Chúng tôi pha nốt chỗ cà phê. Ly cà phê cuối cùng của Tha Li ở bản này ngon và gợi cảm giác khó tả. Ngồi bên Tha Li, ngoài mặt thì vui nhưng lòng tôi lại chạnh buồn. Chiến tranh, chẳng ai đoán trước được điều gì. Liệu tôi có còn dịp nào quay lại bản Noong Bua không?
Bao nghĩ suy mà tôi không thể nói ra được với Tha Li lúc này. Cô ấy đang vui và đang rất hy vọng. Còn tôi cũng phải vui vì không thể để cho Tha Li buồn. Ngày cuối cùng bên Tha Li cứ như thế chầm chậm trôi.
    |
 |
Tác giả (bên phải) trong lần thăm lại chiến trường xưa ở Nam Lào (năm 2016). |
9 giờ sáng hôm sau mới có tiếng còi xe “bim, bim” ngoài bản gọi tôi. Tôi đeo ba lô và khoác súng lên vai, chào "Sabaidi phò, me” rồi cùng Tha Li xuống nhà. Chúng tôi phải chia tay nhau tại đây. Tha Li đưa cả hai tay ra nắm hai bàn tay tôi, hai đứa nhìn vào mắt nhau. Chưa biết nói gì, cả hai bịn rịn mà không ai dám khóc. Nhìn vào mắt Tha Li, tôi hiểu rằng khoảng cách tình cảm để đưa chúng tôi đến với tình yêu lúc này chỉ chưa đầy gang tấc, nhưng cây súng trên vai và bộ quân phục tôi đang mặc đã giữ cho khoảng cách ấy không thể phá vỡ. Tôi rút nhẹ tay mình khỏi tay Tha Li, nói nhỏ một câu: “Tạm biệt, anh sẽ rất nhớ em” rồi quay đi, thế mà bên tai vẫn còn kịp nghe Tha Li nói: “Em yêu anh”.
Xe ô tô chuyển bánh và tôi dần rời xa bản Noong Bua. Vướng đôi hàng cây nhỏ trong bản nên lúc lên xe, tôi không nhìn được Tha Li, nhưng tôi tin cô ấy sẽ còn đứng đó rất lâu. Tôi như muốn thốt lên rằng: “Tha Li ơi, anh cũng rất yêu em”...
Trung đoàn tôi về đứng chân ở Tha Teng (thuộc tỉnh Sekong), sau mấy tháng củng cố rồi sau đó nhận nhiệm vụ trở về miền Nam chiến đấu. Thời gian ở Tha Teng, dù khoảng cách chỉ hơn trăm cây số nhưng tôi không thể trở về được bản Noong Bua để tìm thăm Tha Li. Tôi không thể nào quên người con gái Lào ấy. Tôi đã được Tha Li chăm sóc với tình cảm rất nồng hậu trong mấy ngày để qua cơn sốt rét. Cô ấy đã giúp tôi với tình cảm như một người mẹ, người chị, người em và cả người yêu nữa. Tha Li đối với tôi đã vượt qua cả mức nghĩa tình của người dân Lào với bộ đội tình nguyện Việt Nam trong quan hệ quốc tế.
Sau ngày kết thúc chiến tranh, đơn vị chuyển lên cao nguyên Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), tôi mới lại có dịp được uống cà phê Arabica theo kiểu pha “bít tất”. Mỗi lần cầm ly cà phê trên tay, tôi lại nhớ tới Tha Li. Tha Li ơi, bây giờ em có còn ở bản Noong Bua nữa không? Có còn nhớ tới anh bộ đội tình nguyện Việt Nam đã được em chăm sóc năm xưa không? Người ấy đã mang theo tình cảm của em như một sức mạnh để đi qua suốt cuộc chiến tranh.
VŨ CÔNG CHIẾN