Ngày đầu tham gia cách mạng

Ông Đặng Văn Việt sinh năm 1920, là người Diễn Châu, Nghệ An, có gốc gác con cháu họ Trần lừng lẫy chống giặc Nguyên-Mông từ xưa, nhưng qua một số biến cố cuối đời nhà Trần nên đổi họ, chuyển vào Diễn Châu. Từ nhỏ, Đặng Văn Việt theo cha vào học ở Huế. Cha ông là cụ Đặng Văn Hướng, một vị quan dưới triều Bảo Đại, sau về làm Tổng đốc tỉnh Nghệ An.

Từ năm 1942, Đặng Văn Việt ra Hà Nội học trường y dược, được tiếp xúc với phong trào yêu nước, bắt đầu giác ngộ cách mạng. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương, phong trào Việt Minh phát triển sôi nổi, rầm rộ từ Bắc chí Nam. Anh thanh niên Đặng Văn Việt trở về Huế vào học tiếp ở Trường Thanh niên tiền tuyến (tên đầy đủ là Trường Võ bị Thanh niên tiền tuyến). Đây là trường huấn luyện quân sự trực thuộc bộ thanh niên của chính phủ Trần Trọng Kim nhưng do những trí thức yêu nước theo Việt Minh dẫn dắt. Học viên Trường Thanh niên tiền tuyến hầu hết là sinh viên các trường đại học ở Đông Dương, một số đã là cơ sở của Việt Minh. Hai ông Phan Anh và Tạ Quang Bửu (sau làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng những năm đầu thành lập nước) tổ chức huấn luyện, hướng họ về với cách mạng.

Sau khi Hà Nội giành chính quyền ngày 19-8, đêm 20-8, hai thanh niên Đặng Văn Việt và Nguyễn Thế Lương (sau này là Thiếu tướng Cao Pha) được ông Trần Hữu Dực giao nhiệm vụ treo cờ cách mạng lên kỳ đài trước Ngọ môn ở Huế sáng ngày 21-8-1945. Cả đêm hồi hộp không ngủ, sáng ra, hai người nai nịt gọn gàng trong quân phục chỉnh tề, đầu đội ca lô kiểu kỵ binh mã vàng, đi ghệt cao cổ của ngự lâm quân trông rất oai phong. Lá cờ đỏ sao vàng dài 12m, rộng 8m được cuộn tròn gác lên hai chiếc xe đạp, hai người đẩy xe thẳng tiến về phía kỳ đài. Đặng Văn Việt dõng dạc nói với viên chỉ huy lính bảo vệ: “Theo lệnh Ủy ban Kháng chiến Trung Bộ, chúng tôi có nhiệm vụ treo cờ cách mạng lên cột cờ thay cờ quẻ ly, các anh giúp chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ”. Khi lá cờ đỏ đã lên đỉnh cột, hai người đứng nghiêm đưa tay chào cờ, viên chỉ huy và lính pháo ngoan ngoãn làm theo. Thấy cờ nhà vua bị hạ xuống, viên chỉ huy đại đội lính khố vàng ra lệnh cho 120 tay súng chĩa về phía Đặng Văn Việt và Nguyễn Thế Lương rồi báo vua Bảo Đại. Sau khi hỏi ý kiến Hoàng hậu Nam Phương, vua Bảo Đại ra lệnh: "Không được bắn". Trưa 21-8-1945, cờ đỏ sao vàng tung bay, nhân dân Huế mừng vui chào đón cách mạng.

Những ngày sục sôi cách mạng, 43 học viên Trường Thanh niên tiền tuyến phối hợp với lực lượng Việt Minh mở cửa nhà tù, giải phóng cho tù chính trị, bảo vệ các cuộc mít tinh giành chính quyền; giải giáp các trại lính khố vàng, khố đỏ, khố xanh, tịch thu tài liệu, vũ khí, kho tàng của chế độ cũ. Ngay khi ta giành chính quyền ở Huế, cuối tháng 8, quân Pháp dùng một tàu đổ bộ vào cửa biển Thuận An hòng uy hiếp lực lượng cách mạng còn non trẻ ở đây. Với tố chất nhanh nhẹn và dũng cảm, Đặng Văn Việt được giao chỉ huy một trung đội tổ chức trấn giữ cửa biển, đã mưu trí bắt gọn một quan ba và hai quan hai của địch, dập tắt ý đồ hỗ trợ giữ lại bộ máy chính quyền tay sai. Đây là chiến công đầu tiên mở đầu cho nhiều trận thắng giòn giã sau này dưới sự chỉ huy của ông.

Cuối năm 1945, Đặng Văn Việt chỉ huy một số phân đội phối hợp với các đơn vị bạn đánh Pháp giành nhiều thắng lợi ở Đường 9, ở Trung-Hạ Lào. Đầu năm 1946, ông làm Tham mưu trưởng Mặt trận Đường 7. Sau đó, ông được điều động ra miền Bắc, ban đầu làm huấn luyện viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1).

leftcenterrightdel

Ông Đặng Văn Việt thời trẻ. 

Những trận đánh để đời

Tháng 10-1947, Pháp mở chiến dịch Léa có quy mô rất lớn lên vùng Việt Bắc. Chúng xây dựng kế hoạch hành quân rầm rộ, huy động mấy vạn quân, sử dụng nhiều máy bay, tàu chiến, xe tăng, súng pháo... tạo 3 gọng kìm lớn với ý đồ đánh nhanh, thắng nhanh hòng bóp nghẹt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực Việt Minh, khủng bố nhân dân, chia cắt liên hệ của ta với cách mạng Trung Quốc...

Lúc này, Đặng Văn Việt đã là cán bộ chủ chốt ở Phòng Tác chiến (sau này là Cục Tác chiến) thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Cuối tháng 10-1947, ông được đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Hoàng Văn Thái giao làm Đặc phái viên của Bộ Quốc phòng giữ liên hệ và sát cánh với Trung đoàn 11 của tỉnh Lạng Sơn (sau đổi thành Trung đoàn 28), có nhiệm vụ đánh chia cắt địch, bảo vệ Đường số 4. Dấu ấn trận đánh lớn đầu tiên của ông là đề xuất cách bố trí đội hình, cùng chỉ huy Tiểu đoàn 23 đánh phục kích thắng lợi ở Bố Củng-Lũng Vài, thu nhiều vũ khí, chiến lợi phẩm, mặc dù trang bị của ta còn quá thô sơ, thiếu thốn. Sau đó, ông còn trực tiếp lên kế hoạch, cùng với chỉ huy Tiểu đoàn 374 và Tiểu đoàn 23 tổ chức phối hợp đánh thắng giòn giã trận Bản Nằm, tiêu diệt nhiều sinh lực địch.

Cuối năm 1947, Đặng Văn Việt được giao làm Trung đoàn phó rồi Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28. Điều nổi bật ở ông là luôn trực tiếp đi trinh sát kỹ địa hình, nắm chắc tình hình địch, giả định các tình huống tác chiến và sâu sát động viên anh em, dựa vào sự giúp đỡ tận tình của đồng bào các dân tộc. Vì thế mà năm 1948, đầu năm 1949, các đơn vị bộ đội có sự tham gia chỉ huy của ông liên tục đánh thắng nhiều trận trên Đường số 4 và các địa phương lân cận, gây tổn thất lớn cho địch, góp phần giữ vững Chiến khu Việt Bắc, bảo vệ Trung ương.

Giữa năm 1949, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập trung đoàn chủ lực trên cơ sở sáp nhập 3 trung đoàn (Trung đoàn 28 của Lạng Sơn, Trung đoàn 72 của Bắc Kạn và Trung đoàn 74 của Cao Bằng) thành Trung đoàn 174 do ông Đặng Văn Việt làm Trung đoàn trưởng, ông Chu Huy Mân làm Chính ủy. Trước khi làm lễ ra mắt trung đoàn, ban chỉ huy bàn bạc và quyết tâm đánh thắng một trận để đời nhân chào mừng ngày Quốc khánh nước ta. Thế là trận Bông Lau-Lũng Phầy diễn ra. Với phương châm hành động “Bí mật, táo bạo, mưu trí”, sau mấy ngày kiên trì phục kích chịu đói, vượt khó, ngày 3-9-1949, Trung đoàn 174 đã anh dũng chặn đánh đoàn xe lớn của địch theo Đường số 4 tiến lên Cao Bằng. Trận này ta tiêu diệt hơn 100 xe vận tải, xe tăng, xe bọc thép, diệt và bắt sống hàng trăm tên địch, thu nhiều vũ khí hiện đại bổ sung cho bộ đội ta, lấy được một lượng lớn lương thực, thực phẩm cấp phát cho nhân dân.

Trong Chiến dịch Biên giới Thu-Đông 1950, Trung đoàn 174 vinh dự được đón Bác Hồ lên quan sát chiến sự và động viên bộ đội. Ông Đặng Văn Việt chủ động đề xuất phương án và chỉ huy Trung đoàn 174 mưu trí tấn công tiêu diệt cứ điểm Đông Khê ngày 18-9-1950. Thời gian tiếp theo, trung đoàn phối hợp với các đơn vị bạn, với nhân dân Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh đánh chia cắt địch trên Đường số 4, điển hình là trận đánh chặn binh đoàn địch rút khỏi Cao Bằng, đón đánh địch từ Thất Khê lên ứng cứu... bắt sống hai đại tá, tư lệnh hai binh đoàn chủ lực của Pháp là Charton và Lepage cùng hàng trăm sĩ quan, hàng nghìn lính Pháp và lê dương, giữ vững và mở rộng hành lang an toàn Đường số 4. Người Pháp gọi Đặng Văn Việt là “Hùm xám Đường số 4”.

Năm 1951 và đầu năm 1952, Trung đoàn 174 nằm trong đội hình Đại đoàn 316. Ông Đặng Văn Việt tiếp tục chỉ huy trung đoàn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh địch giữ vững địa bàn vùng đồng bằng Liên khu 3, chống lại nhiều trận càn của Pháp ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên... Cuối năm 1952, trung đoàn tham gia Chiến dịch Tây Bắc, đánh thắng nhiều trận trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, Đường số 6, tiêu biểu là trận diệt gọn đồn Mộc Châu tháng 11-1952 do ông trực tiếp chỉ huy. Trong khi trung đoàn cùng các đơn vị bạn chuẩn bị tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ thì ông được cử đi học ở Trung Quốc, sau về công tác tại Trường Lục quân Việt Nam (Trường Sĩ quan Lục quân 1 ngày nay) rồi chuyển ngành năm 1960.

leftcenterrightdel

Ông Đặng Văn Việt. Ảnh do gia đình nhân vật cung cấp

Tại các hội thảo, dịp kỷ niệm Chiến thắng Đường số 4 trước đây đã có nhiều vị tướng chia sẻ, nhìn nhận về ông. Đại tướng Lê Trọng Tấn từng nói: “Anh Đặng Văn Việt luôn nhanh chóng tìm ra những cách đánh sáng tạo, thích hợp với thực tiễn chiến trường của trận đánh và của chiến dịch. Quyết định đánh Đông Khê trước khi nổ ra Chiến dịch Biên giới là một quyết định đầy trí tuệ và đầy tinh thần trách nhiệm. Anh Đặng Văn Việt là một quân nhân cách mạng, cuộc đời có nhiều bão táp, nhưng lúc nào cũng lạc quan, tươi cười và sáng tạo trong khi còn nhiều thiếu thốn, khó khăn”.

Gương mẫu trong cuộc sống đời thường

Ở môi trường công tác mới, ông vẫn phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, ham học hỏi nên luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ như khi ở trong quân đội. Được nghỉ hưu năm 1980, khi kinh tế cả nước còn khó khăn, ông chăm chỉ làm thêm, mượn đất trồng rau, chăn nuôi... để trang trải cuộc sống. Nhiều năm qua, ông vẫn ở căn phòng 32m2 trên tầng 4 Khu tập thể Bộ Xây dựng cấp khi mới chuyển ngành trên phố Minh Khai, Hà Nội. Dù tuổi rất cao nhưng ông vẫn minh mẫn, dành thời gian viết và dịch sách.

Mấy năm nay (trừ những đợt nghỉ vì dịch Covid-19), Trung tâm Thể thao Ba Đình (Hà Nội) vẫn thấy một ông già thi thoảng tự đi xe máy 3 bánh đến sân tennis trò chuyện với hội viên, sau đó cùng anh em thưởng thức vài cốc bia hơi lúc cuối chiều. Mọi người cho hay, khoảng 15 năm trước, tuy đã gần 90 tuổi, ông vẫn còn chơi tennis; mỗi khi cao hứng, ông còn tham gia câu lạc bộ khiêu vũ với vài điệu valse, boston hay rumba. Thật thán phục một con người bền bỉ rèn luyện sức khỏe và yêu thể thao, yêu cái đẹp...

Biết tin ông rời cõi tạm để về với đồng đội của mình từng ngã xuống trên các chiến trường... xin viết mấy dòng thay nén hương thơm tiễn biệt...

NGUYỄN NHÂN TỎ