Những năm mở đầu thập niên 1960, ở địa chỉ Viện Văn học 20 Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm (Hà Nội), trên cương vị Tổ trưởng Tổ Cổ-Cận-Dân, rồi Tổ Văn học dân gian được tách ra, Vũ Ngọc Phan đã có mấy chục năm hoạt động nghề nghiệp. Ông viết báo, là thư ký tòa soạn hoặc chủ bút báo; là dịch giả; là tác giả bộ sách lớn “Nhà văn hiện đại” 4 quyển, 5 tập; là giảng viên của các khóa văn hóa kháng chiến Liên khu 4; là thành viên đầu tiên của Ban nghiên cứu Lịch sử-Địa lý-Văn học (tiền thân của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam ngày nay); là tác giả bộ sách lớn “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam” vừa bắt đầu được khởi thảo...

Trên cương vị người phụ trách đầu tiên của Tổ Văn học dân gian, Viện Văn học, với các công trình sưu tầm, khảo cứu của mình và với công tổ chức cuộc hội thảo đầu tiên về sưu tầm văn học dân gian toàn miền Bắc, Vũ Ngọc Phan đã được Đại hội Văn nghệ dân gian lần thứ nhất (tổ chức tháng 11-1966) tin cậy giao trách nhiệm Tổng thư ký Hội. Và do vốn kiến thức, kinh nghiệm nghề nghiệp phong phú, do trí nhớ mẫn tiệp, ở phần cuối đời, lẽ tự nhiên, ông còn tiếp tục mở rộng diện hoạt động của mình sang lĩnh vực hồi ký văn học. Cuốn hồi ký “Những năm tháng ấy” (năm 1987), cùng với bộ “Nhà văn hiện đại” viết trước năm 1945 và tập phê bình “Qua những trang văn” (năm 1976) cho ta nhận diện Vũ Ngọc Phan tuy là dân xứ Kinh Bắc, có gốc tổ ở Hải Dương nhưng am hiểu kỹ Hà Nội 36 phố phường; là người hoạt động phê bình có quan hệ rộng rãi với nhiều thế hệ tác giả văn học Việt Nam hiện đại, trong đó có những tên tuổi đặc biệt thân thiết với bác Phan cũng như đối với nhiều người trong chúng ta như: Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài...

Một cuộc đời hoạt động không mỏi mệt trên nhiều lĩnh vực, ở mỗi lĩnh vực đều có đóng góp; và sự nghiệp để lại, nếu như tính toán thật triệt để theo sự thanh lọc của thời gian, với dấu ấn khá đậm, ở phần nửa đầu thế kỷ là bộ sách “Nhà văn hiện đại” đồ sộ và phần nửa sau thế kỷ là “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam” được tái bản đến lần thứ mười hai. Một cuộc đời như vậy rất đáng cho chúng ta kính trọng, và một sự nghiệp như vậy rất đáng cho chúng ta biết ơn. Tôi thấy cần nhấn mạnh thêm về vị trí mở đầu của hai bộ sách mà tác giả là người khai phá, và là một mở đầu rất đặc biệt, vì tầm vóc lớn của nó, vì khả năng tổng hợp của nó-qua đó thấy tác giả không chỉ là người gắn bó, tâm huyết với nghề, mà còn là người có tác phong chu đáo, cẩn trọng và có trách nhiệm rất cao.

Về bộ sách “Nhà văn hiện đại”, với chân dung và sự nghiệp của 79 tác giả, suốt hơn nửa thế kỷ sau khi bộ sách ra đời, không người nghiên cứu, phê bình văn học hiện đại nào không cần đến nó như một bộ sách công cụ cực kỳ quan trọng cho việc tìm hiểu diện mạo văn học dân tộc trong bước chuyển gấp rút từ trung đại sang hiện đại. Tôi còn nhớ lần đầu được tiếp xúc với bộ sách, ở tuổi nhỏ ham sách, do đầu óc còn non, nên cái hăm hở đầu tiên là tìm đọc cho hết các trích đoạn in nghiêng thơ và truyện được tuyển chọn để phân tích, thấy đoạn nào, câu nào cũng hay, nhờ thế mà sau này lớn lên không còn bị xa lạ với các tên sách, tên tác giả của 45 năm văn học trong nửa đầu thế kỷ 20; rồi sau khi vào nghề, ở tuổi ngoài 20 mới lĩnh hội được dần dần các giá trị khoa học của nó. Quả là cuốn sách đạt được chất lượng rất cao ở cả hai phẩm chất: Khảo cứu và phê bình. Về khảo cứu: Đó là một công phu lao động cực kỳ chu đáo, tỉ mỉ, một khổ công ghê gớm trong sưu tập và bao quát tư liệu để hướng tới những nhận thức có tính tổng kết về thành tựu của tiến trình hiện đại hóa, với gia tốc lịch sử, một năm ở ta coi như bằng mấy chục năm của người.

Và về phê bình, đó là chân dung 79 người viết trong tên gọi tổng quát là nhà văn, bao gồm cả hai lĩnh vực: Sáng tác và trước tác-một khái niệm, một cách quan niệm chỉ đến thời hiện đại mới có, bao gồm thơ, văn, kịch và biên khảo-nghị luận, phê bình. Riêng văn thì gồm đủ các loại truyện và ký; và truyện cũng có đến 10 loại, gồm phong tục, luận đề, luân lý, truyền kỳ, phóng sự, hoạt kê, tả chân, xã hội, tình cảm, trinh thám. Đó là một cách nhận dạng theo lối tư duy phân tích kiểu phương Tây, trước đó chưa hề có. Ở tư chất phê bình, phải nói là Vũ Ngọc Phan đã có không ít phát hiện rất đích đáng, chẳng hạn về Nguyễn Tuân, Lê Văn Trương, về Tô Hoài, Vũ Bằng... Những phát hiện mà tôi tin là tác giả nào cũng phải “chịu” mà không một chút tự ái hoặc phật ý; như nhận xét về cái nhìn khinh bạc ở Tô Hoài, về cách “thuổng” văn “Những đêm trắng” của Dostoyevsky rất hồn nhiên, tự nhiên ở Vũ Bằng...

Tất nhiên đây chỉ là sức của một người (tôi nói vậy, bởi trong cả một thời gian rất dài sau năm 1945 cho đến nay, gần như với những bộ sách như thế phải có đông người viết). Với sức một người, và với tư cách là người đồng thời, mà chưa có độ lùi thời gian, tác giả làm sao mà tránh được những thiếu sót, hoặc những chuyện ngỡ như vô lý. Chẳng hạn, nếu đã chọn viết về Tương Phố, tác giả bài “Giọt lệ thu” khóc chồng cùng một số bài lẻ khác đăng trên Nam Phong tạp chí, thì sao lại bỏ qua Nguyễn Bính (và cả Chế Lan Viên)-người có một chân dung đầy đặn và độc đáo chẳng kém Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận... Hoặc Nam Cao. Thật tình tôi vẫn tiếc cho sự vắng mặt Nam Cao, người có những thành tựu thật đặc sắc trong những năm 1941-1944, cũng là những năm ra đời 4 quyển “Nhà văn hiện đại”. Dẫu sao, tiếc là tiếc vậy, chứ cũng có lý do để giải thích cho sự bỏ sót, và cũng chẳng phải là cớ để trách Vũ Ngọc Phan.

leftcenterrightdel

Nhà văn Vũ Ngọc Phan (1902-1987). Ảnh tư liệu

Trên dưới 30 năm, kể từ sau 1960, khi chủ trì một số công trình về văn học Việt Nam hiện đại, khi hướng dẫn và chấm các luận án tiến sĩ, thạc sĩ về lý luận văn học và văn học hiện đại, tôi luôn luôn nhắc nhở, nhấn mạnh bộ sách “Nhà văn hiện đại” là tài liệu không được phép vắng thiếu trong các thư mục nghiên cứu của các học viên; và những ý kiến, nhận xét, đánh giá của Vũ Ngọc Phan về một tác giả nào đấy luôn luôn là cơ sở, là điểm tựa cho sự phát triển hoặc điều chỉnh các luận điểm của công trình và luận án. Và tôi nghĩ, ở hiện tượng này, giá trị khoa học trong công trình của Vũ Ngọc Phan đang không ngừng được mở rộng...

Khía cạnh thứ hai về giá trị của “Nhà văn hiện đại” tôi muốn nhấn mạnh, chính bộ sách là hiện thân, là đại diện, là sản phẩm, là sự kết tinh ở đỉnh cao thành tựu của tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc diễn ra chỉ trong hơn 30 năm nếu tính từ khởi điểm Nguyễn Văn Vĩnh, Hồ Biểu Chánh, Tản Đà, Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách, Vũ Đình Long... kể từ đầu thập niên 1920.

Trong sự phát triển của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20, thời kỳ 1930-1945 theo tôi là thời kỳ hoàn thiện diện mạo hiện đại của văn học dân tộc, thời kỳ kết tinh và đưa lên đỉnh cao thành tựu của tất cả các khuynh hướng sáng tác và thể loại, với Thơ mới và Tự lực văn đoàn; với trào lưu hiện thực và tùy bút Nguyễn Tuân, truyện và kịch lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng; với Tố Hữu và "Nhật ký trong tù" (Hồ Chí Minh)... Ở giai đoạn cuối của nó, trong nửa đầu thập niên 1940, cố nhiên là không thể sớm hơn, đó là sự xuất hiện các công trình khảo cứu, nghị luận, phê bình thật sáng giá của Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, Đặng Thai Mai...

Vậy là ở tuổi 40, với đột phá là "Nhà văn hiện đại"; ở tuổi ngoài 60, trở về với văn học dân gian, 50 năm hành trình nghề nghiệp của Vũ Ngọc Phan là 50 năm gắn bó với các giá trị tinh thần trong di sản văn chương-học thuật dân tộc. Và đó là điều ông đã từng viết trong bộ sách “Nhà văn hiện đại”: “Văn chương tuy không bổ ích trực tiếp cho người đời như cơm gạo, nhưng nó chính là một thứ đồ ăn về đường tinh thần của một dân tộc văn minh; nó chính là hồn của một dân tộc biết suy nghĩ, biết nhận xét và luôn luôn có cái hy vọng chen vai thích cánh với những dân tộc hùng cường trên thế giới. Một dân tộc không biết trọng văn chương của mình chỉ có thể là một dân tộc man di hay sắp đến ngày diệt vong”.

Tháng 9-2022

GS PHONG LÊ