Sinh năm 1969, tại xã Đức Huệ, vùng căn cứ cách mạng kiên cường bên dòng Vàm Cỏ Đông, Nguyễn Văn Bớt lớn lên trong tiếng hò, điệu lý và âm sắc ngọt ngào của đờn ca tài tử. Những thanh âm quê hương ấy đã thấm sâu vào tâm hồn ông từ thuở nhỏ và trở thành nền tảng nuôi dưỡng con đường sáng tác sau này. Đến năm 1995, bước ngoặt thực sự mới đến khi ông cho ra đời bài vọng cổ đầu tay mang tên “Đức Huệ chút tình quê”. Tác phẩm viết về chính quê hương ông-nơi ra đời LLVT Quân khu 7, nơi từng được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Bài ca khắc họa khí phách của Trung tướng Nguyễn Bình, Tư lệnh đầu tiên của LLVT Nam Bộ, như một biểu tượng của tinh thần bất khuất và nghĩa tình quân dân bền chặt nơi vùng đất giàu truyền thống cách mạng.

leftcenterrightdel

 Chân dung soạn giả vọng cổ Nguyễn Văn Bớt.

Tác phẩm nhanh chóng tạo dấu ấn sâu sắc, được NSND Thanh Tuấn, NSND Trọng Hữu và nhiều nghệ sĩ gạo cội thể hiện, phát sóng trên Đài Tiếng nói Việt Nam và các đài địa phương. Soạn giả Nguyễn Văn Bớt chia sẻ, khoảnh khắc đầu tiên được nghe bài ca của mình vang lên qua giọng ca nghệ sĩ lớn là ký ức không thể nào quên, vừa xúc động, vừa tiếp thêm động lực để ông dấn thân sâu hơn vào con đường sáng tác.

leftcenterrightdel

Nghệ sĩ gạo cội Thanh Tuấn (bên trái) là người hát rất nhiều bài hát do soạn giả Nguyễn Văn Bớt sáng tác. 

Dưới sự hướng dẫn tận tình của người thầy-soạn giả Diệp Vàm Cỏ-ông ngày càng hoàn thiện lối viết, trau chuốt từng câu chữ. Từ đó đến nay, ông đã sáng tác hơn 100 bài vọng cổ. Mỗi bài là một lát cắt thời gian, một mảnh đất, một con người. Những sáng tác như “Thương nhớ Tháp Mười”, “Vòng cung vùng đất anh hùng”, “Người chiến sĩ miền Đông”... đều thấm đẫm sắc thái Nam Bộ, gắn bó chặt chẽ với các địa danh lịch sử, phản ánh lòng tự hào dân tộc và nghĩa tình đồng bào. Không chỉ sáng tác bài ca, ông còn viết hai kịch bản cải lương: “Cùng xây quê mới” và “Tiếng gọi quê hương”. Cả hai kịch bản cải lương này đều đã được tuyển chọn in thành sách. Không giới hạn trong những tác phẩm mang âm hưởng truyền thống, ông mạnh dạn bước vào không gian hiện đại, phản ánh đời sống mới của người dân vùng quê. Các bài ca như “Cờ Đỏ quê mới tôi yêu”, “Đại Thành quê mới tầm cao”, “Sắc xuân Mỹ Khánh”, “Lộc xuân dưa-bưởi hồ lô”... đều mang hơi thở thời đại, thể hiện sinh động hành trình xây dựng nông thôn mới, ghi lại những đổi thay tích cực của miền Tây.

leftcenterrightdel
Phim Song Lang - làn gió mới của màn ảnh Việt khi khai thác về đề tài thời hoàng kim của loại hình nghệ thuật cải lương. 

Khi đại dịch Covid-19 bùng phát, ông nhanh chóng chuyển hóa những cảm xúc và sự kiện thời sự vào từng câu vọng cổ. Từ “Tình người trong mùa dịch” do NSND Thanh Tuấn thể hiện, đến “Quân-dân miền Đông đồng lòng chống dịch” (nghệ sĩ Đức Tài), và đặc biệt là “Chung tay chống dịch”-ca cổ do hai nghệ sĩ Lư Quốc Vinh và Nhật Hoàng (Đoàn Văn công Quân khu 7) thể hiện đã đoạt giải B tại cuộc thi sáng tác do Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam tổ chức. Những tác phẩm ấy cho thấy một người nghệ sĩ luôn nhạy bén với hơi thở thời cuộc, đặt nghệ thuật giữa mạch sống đời thường.

Trong mạch sáng tác ấy, “Ngàn năm thương nhớ Trường Sa” là bài vọng cổ mà ông dành nhiều tâm huyết đặc biệt. Với hình ảnh cha Lạc Long Quân, mẹ Âu Cơ, đất Tổ Hùng Vương được đưa vào lời ca một cách nhuần nhuyễn, bài ca không chỉ lay động bởi chiều sâu văn hóa, lịch sử mà còn thể hiện trọn vẹn tình cảm thiêng liêng dành cho Bộ đội Hải quân đang ngày đêm canh giữ vùng biển, đảo xa xôi. Ông nói: “Tôi mong thế hệ trẻ hôm nay hiểu rõ hơn về chủ quyền biển, đảo, để thêm yêu, thêm trân trọng những giá trị cha ông đã đổ xương máu để giữ gìn”.

Không dừng lại ở các vấn đề lớn, soạn giả Nguyễn Văn Bớt còn đưa cả chuyện đời thường vào bài ca vọng cổ như một cách nâng tầm nghệ thuật, làm nó gần gũi và sống động hơn. Tác phẩm “Nhớ về Đại học Cần Thơ” qua phần thể hiện của NSND Trọng Phúc và NSƯT Phượng Hằng là một ví dụ điển hình, vừa chan chứa hoài niệm sinh viên, vừa khơi dậy tình cảm sâu nặng với ngôi trường đầu ngành của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Giữ chân khán giả, đặc biệt là giới trẻ trong thời đại hội nhập, là một thách thức không nhỏ với ông. Theo ông, điều khó nhất là vừa giữ được cái hồn truyền thống, vừa làm mới nội dung và hình thức thể hiện. “Vọng cổ-cải lương là loại hình nghệ thuật truyền thống độc đáo ở Nam Bộ. Nó đòi hỏi sự chắt lọc trong gieo vần, trau chuốt từng câu chữ, phải tải được nội dung và chủ đề phong phú, đa dạng. Có khi viết xong, ngồi đọc lại, thấy chưa vừa ý, tôi sẵn sàng sửa nhiều lần cho đến khi hài lòng”, ông tâm sự.

Soạn giả, nhà báo Mai Văn Lạng, Phó giám đốc Trung tâm Bảo tồn nghệ thuật biểu diễn truyền thống Việt Nam, Trưởng phòng Dân ca, Hệ Âm nhạc-Thông tin-Giải trí, Đài Tiếng nói Việt Nam, từng nhận xét rằng các sáng tác của Nguyễn Văn Bớt có ca từ mượt mà, ý tứ sâu lắng, giàu chất Nam Bộ. Nhờ vậy, nghệ sĩ dễ thể hiện được cái hồn bài ca, còn người nghe dễ đồng cảm và thuộc lòng. Những đề tài ông chọn về quê hương, đất nước, biển, đảo, tình người luôn giản dị mà lắng đọng.

Chiều muộn nơi ngoại ô TP Cần Thơ, trong căn phòng nhỏ chất đầy bản thảo, người nghệ sĩ ấy vẫn miệt mài với những con chữ, những giai điệu. Ông mỉm cười hiền hậu: “Còn bài ca vọng cổ là còn tình quê hương, đất nước trong lòng người Việt. Tôi và anh em nghệ sĩ, cùng khán giả mộ điệu trên cả nước sẽ còn tiếp tục giữ lửa, để nghệ thuật cải lương mãi sống trong trái tim dân tộc”.

Với soạn giả Nguyễn Văn Bớt, mỗi bài vọng cổ là một nhịp cầu gắn kết quá khứ và hiện tại, truyền thống và hiện đại. Những giai điệu ấy không chỉ để thưởng thức mà còn là lời nhắc nhớ về cội nguồn, về bản sắc văn hóa của dân tộc Việt. Và khi 5 âm bậc hò-xự-xang-xê-cống vẫn còn ngân vang trong lòng người, thì tiếng lòng vọng cổ sẽ không bao giờ tắt, sẽ mãi lan tỏa, sống động và bền bỉ giữa cuộc sống hôm nay.

Bài và ảnh: THANH HÀ