Mốc son chói lọi
Phóng viên (PV): Thưa đồng chí, Chiến thắng 30-4-1975 có ý nghĩa đối với cách mạng Việt Nam và mang giá trị thời đại sâu sắc như thế nào?
Thiếu tướng, TS Nguyễn Hoàng Nhiên: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến công chói lọi, biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã đánh thắng kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất thế giới, chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đó cũng là chiến thắng tiêu biểu của lực lượng cách mạng có ý nghĩa quốc tế và tính thời đại sâu sắc, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chiến thắng này đã khẳng định và làm sáng tỏ chân lý: Trong thời đại ngày nay, một dân tộc đất không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song có sự đoàn kết chặt chẽ và ý chí quyết tâm đấu tranh chống giặc ngoại xâm, dưới sự lãnh đạo của một đảng mác-xít chân chính, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược.
|
|
Thiếu tướng, TS Nguyễn Hoàng Nhiên. Ảnh: THU HÒA
|
Chiến thắng 30-4-1975 là kết quả hợp thành của nhiều yếu tố. Trong đó, đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo của Đảng là yếu tố quyết định. Đường lối đó thể hiện ở những nội dung chủ yếu như: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc; thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế; phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong nước và liên minh đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của 3 nước Đông Dương...
Đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam
PV: Nét độc đáo, sáng tạo của NTQS Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh được thể hiện ra sao trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, thưa đồng chí?
Thiếu tướng, TS Nguyễn Hoàng Nhiên: Thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 là kết quả của sự vận dụng sáng tạo lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội trong điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời là sự kế thừa tinh hoa NTQS Việt Nam qua hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước, qua đó thể hiện rõ nét độc đáo, sáng tạo của NTQS Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Về chỉ đạo chiến lược, nổi bật nhất là nghệ thuật tạo và nắm chắc thời cơ, chủ động, kịp thời hạ quyết tâm chiến lược. Cuối năm 1974, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương cùng cán bộ chủ chốt ở chiến trường đã họp bàn xác định quyết tâm và kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976; đồng thời dự kiến nếu thời cơ đến thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Đầu năm 1975, trên cơ sở đánh giá đúng tình hình, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở nhiều hướng tiến công chiến lược giành thắng lợi, làm cho thế bố trí chiến lược của địch bị đảo lộn, tan vỡ. Chính quyền tay sai Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Nắm chắc thời cơ chiến lược, Bộ Chính trị bổ sung quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975; tiếp đó là trước mùa mưa năm 1975.
Trước diễn biến mau lẹ của tình hình, ta triển khai gấp kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn-Gia Định, đặt tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Chỉ sau hơn 4 ngày tiến công thần tốc, dũng mãnh (từ 26 đến 30-4-1975), Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thực tiễn đó khẳng định, việc nắm chắc thời cơ, kịp thời điều chỉnh quyết tâm chiến lược của Đảng có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi.
Về nghệ thuật tác chiến chiến dịch trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 có nhiều nét độc đáo, sáng tạo:
Một là việc chọn hướng tiến công mở đầu là Tây Nguyên và giải phóng Tây Nguyên đã tạo điều kiện để tiến công giành thắng lợi ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, đẩy quân địch vào thế tan vỡ chiến lược.
Hai là tập trung lực lượng. Cụ thể, trong Chiến dịch Tây Nguyên, ta đã tập trung lực lượng, tạo được ưu thế áp đảo địch ở những trận then chốt và trận then chốt quyết định. Ở Chiến dịch Trị Thiên-Huế và Chiến dịch Đà Nẵng, tuy binh lực, hỏa lực của ta không hơn địch, nhưng ta đánh địch trên thế mạnh nên vẫn áp đảo quân địch. Đến Chiến dịch Hồ Chí Minh, với việc phát huy sức mạnh của 5 cánh quân cấp quân đoàn và tương đương, ta đã giành ưu thế tuyệt đối.
Ba là tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn. Trong các chiến dịch, ta sử dụng lực lượng quy mô ngày càng lớn: Bộ binh từ cấp trung đoàn đến nhiều quân đoàn, được tăng cường binh khí, kỹ thuật; vai trò của các quân, binh chủng được phát huy cao độ.
Bốn là nghệ thuật phát huy thắng lợi để giành thắng lợi lớn hơn. Trong Chiến dịch Tây Nguyên, sau khi đánh trận then chốt mở đầu, ta tổ chức trận then chốt tiếp theo tiêu diệt Sư đoàn 23 ngụy, buộc địch phải rút khỏi Tây Nguyên để thực hiện thành công trận then chốt thứ ba, kết thúc chiến dịch. Phát huy thắng lợi, ta nhanh chóng chuyển sang tiêu diệt địch ở Đà Nẵng, cô lập Sài Gòn-Gia Định.
Năm là kết hợp chặt chẽ các lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp. Những đòn tiến công của các binh đoàn chủ lực bằng tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng luôn có sự kết hợp chặt chẽ với nổi dậy của quần chúng.
Về chiến thuật, ta vận dụng các hình thức chiến thuật linh hoạt, sáng tạo; tổ chức các đơn vị binh chủng hợp thành làm nhiệm vụ thọc sâu, đánh địch trong hành tiến với quy mô lực lượng ngày càng lớn, từ mũi thọc sâu đến trung đoàn binh chủng hợp thành thọc sâu và binh đoàn thọc sâu. Quá trình tổ chức các binh đoàn thọc sâu, ta sử dụng không quân tập kích mục tiêu chiến lược; sử dụng đặc công và bộ binh chiếm giữ các địa bàn, bàn đạp, bảo đảm cho các binh đoàn đẩy nhanh tốc độ tiến công. Tổ chức tiến công trong hành tiến, ta đã vận dụng thành công chiến thuật vượt sông bằng sức mạnh với sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực, LLVT địa phương và nhân dân.
Bài học vẹn nguyên giá trị
PV: Thưa đồng chí, NTQS đúc rút ra từ Chiến thắng 30-4-1975 đã được vận dụng vào thực tiễn thế nào?
Thiếu tướng, TS Nguyễn Hoàng Nhiên: Nét độc đáo, sáng tạo của NTQS được rút ra từ Chiến thắng 30-4-1975, như: Nghệ thuật chọn hướng tiến công chiến lược; nghệ thuật tập trung lực lượng; nghệ thuật vận dụng cách đánh; nghệ thuật tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng... là những bài học, kinh nghiệm quý báu trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Sau khi đất nước thống nhất, quân và dân ta lại buộc phải bước vào hai cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu biên giới. Kế thừa, phát huy những bài học rút ra từ Chiến thắng 30-4-1975, trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, ta đã tích cực xây dựng thế trận phòng thủ, từng bước giành quyền chủ động; nắm chắc thời cơ, chủ động chuyển hóa thế trận từ phòng ngự, phản công sang tiến công; sử dụng lực lượng tập trung, phát huy sức mạnh hiệp đồng quân, binh chủng; tạo sức mạnh trong tổng phản công, giành thắng lợi.
Để bảo vệ vững chắc biên giới phía Bắc Tổ quốc, Đảng ta đã luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình, dự đoán chính xác âm mưu và hành động của đối phương để chuẩn bị toàn diện, không để bị động, bất ngờ; giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tự cường, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị, quân sự với đấu tranh ngoại giao; xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân địa phương, nhất là sức mạnh của LLVT tại chỗ kết hợp với sức mạnh hậu phương cả nước, đánh trả có hiệu quả các đợt tiến công ngay thời gian đầu...
PV: Hiện nay, sự nghiệp xây dựng Quân đội và bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới, từ những bài học lịch sử và giá trị NTQS rút ra từ Chiến thắng 30-4-1975, chúng ta cần lưu ý những vấn đề gì, thưa đồng chí?
Thiếu tướng, TS Nguyễn Hoàng Nhiên: Phải khẳng định rằng, những giá trị NTQS rút ra từ Chiến thắng 30-4-1975 đến nay và trong tương lai vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, phát triển để làm sâu sắc thêm cho NTQS Việt Nam. Hiện nay, để thực hiện được mục tiêu đó, cần quán triệt sâu sắc và thực hiện thắng lợi các chiến lược của Đảng về xây dựng Quân đội và bảo vệ Tổ quốc, nhất là nội dung Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về mục tiêu phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI), ngày 25-10-2013 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thực hiện tốt công tác dự báo tình hình; nghiên cứu, xây dựng kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, không để bị động, bất ngờ. Đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, trọng tâm là xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” vững chắc. Cần coi trọng xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở. Trước mắt, chấp hành nghiêm các nghị quyết, đề án, kế hoạch, quyết định thực hiện điều chỉnh tổ chức biên chế Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh. Tranh thủ mọi nguồn lực để trang bị các loại vũ khí, trang bị ngày càng hiện đại cho Quân đội.
Đồng thời, tiếp tục tham mưu, chỉ đạo nâng cao chất lượng huấn luyện, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật trong Quân đội. Tập trung rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, tư duy quân sự, trình độ tham mưu, chỉ huy tác chiến cho cán bộ; trình độ vận dụng chiến thuật, khả năng khai thác, làm chủ vũ khí, trang bị hiện đại và sức cơ động của bộ đội... để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện, tình hình mới.
PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!
DƯƠNG THU (thực hiện)