Ở vùng quê bình yên, có một căn nhà nhỏ nằm nép mình giữa vườn cây xanh mát, ngày ngày nghi ngút khói thuốc từ chảo sao thuốc Nam. Trong gian bếp ấy, người đàn ông đã ngoài tám mươi, vẫn đều đặn sao thuốc, ghi chép bệnh trạng, rồi chắt lọc từng thang thuốc gửi đến tận tay những người bệnh nghèo. Người đàn ông ấy là cha tôi-một người lính từng qua trận mạc, nay là “thầy thuốc không blouse” của bà con quê hương.

Đối với nhiều người, ông chỉ là một ông lão về hưu, sống đời bình dị. Nhưng với tôi, ông là cả bầu trời ký ức, là biểu tượng đẹp đẽ nhất của lòng dũng cảm, của đức hy sinh và lòng nhân ái vô bờ.

Cha tôi từng khoác trên vai màu áo lính, là một chiến sĩ quân y, lên đường vào chiến trường khi tuổi đời còn rất trẻ. Trong những lá thư cũ mẹ vẫn giữ lại, có những dòng cha viết vội bằng mực tím, kể về đêm hành quân trong rừng rậm, có người thương binh rên xiết vì vết thương, có lúc thiếu thuốc men, cha phải lấy lá cây rừng làm thuốc cầm máu.

Bao lần đối mặt giữa sự sống và cái chết, cha tôi vẫn chọn ở lại giữa chiến trường để giúp thêm được một người, cứu thêm một sinh mạng. Không phải chỉ vì nghĩa vụ, mà vì lương tâm của một người lính, một người thầy thuốc và một con người.

Khi hòa bình, cha tôi trở về quê hương, tuổi thanh xuân đã gửi lại trong rừng sâu núi thẳm, nhưng có một điều không bao giờ thay đổi, đó là trái tim luôn đau đáu vì người khác. Tôi lớn lên bên chảo sao thuốc Nam của cha, bên tiếng băm băm chặt chặt cây thuốc, bên mùi khói ấm nồng từ căn bếp cũ... Cha tôi không chọn nghỉ ngơi như bao người về hưu khác. Ông dọn lại mảnh vườn sau nhà, chia khu để trồng từng loại cây thuốc. Đó là những cây thuốc mà ông đã học được trong suốt bao năm công tác, từng góp phần chữa lành cho nhiều người giữa chiến trường thiếu thốn.

leftcenterrightdel
Minh họa: THÁI HÒA

Ngày ngày, người dân quanh vùng tìm đến nhà. Họ mang trong mình bệnh tật, cả những niềm hy vọng mong manh. Cha tôi không bao giờ hỏi ai có tiền hay không. Ai nghèo, ông bốc thuốc không lấy tiền. Ai ở xa, ông gói thuốc gửi xe về tận nơi. Có những buổi trưa nắng chang chang, trên chiếc xe đạp đã cũ, ông đến tận nhà người bệnh để đưa thuốc. Cha tôi nói: “Phải đến vào giờ này người ta mới ở nhà. Buổi sáng họ đi làm thì đưa thuốc và dặn dò họ thế nào được”.

Tôi từng thấy cha lặng người khi một bà cụ cầm tay ông, nước mắt rưng rưng nói: “Bác cứu mạng tôi lần này là lần thứ ba rồi...”. Cha tôi chỉ cười hiền từ, ánh mắt vẫn sáng lên niềm vui giản dị: “Còn giúp được ai thì tôi sẽ giúp hết mình, bà ạ!”.

Giây phút đó, lòng tôi trào dâng một niềm tự hào không lời. Cha-người lính năm xưa, giờ đây vẫn lặng lẽ cống hiến, chữa lành từng mảnh đời bằng tấm lòng bao la.

Tôi không chỉ lớn lên trong tình yêu thương của cha, mà còn lớn lên nhờ sự dạy dỗ ân cần và kiên trì của ông. Cha dạy tôi biết sống tử tế, biết đặt trái tim mình vào nỗi đau của người khác. Cha không tặng tôi món quà nào đắt giá, nhưng ông trao cho tôi cả một gia tài lớn: Nhân cách, lòng bao dung và một trái tim biết yêu người.

Giờ đây, khi đã trưởng thành, đi qua nhiều nơi, gặp gỡ bao người, tôi càng thấm thía hơn giá trị của những điều cha đã âm thầm làm. Giữa một thế giới đầy bon chen, thật hiếm hoi để thấy một con người lặng lẽ sống vì người khác, không mong báo đáp, không chờ lời khen.

Với bà con chòm xóm, cha chỉ là một người già tóc bạc, vẫn cần mẫn bốc thuốc bên hiên nhà. Nhưng với tôi, cha là người hùng, không danh hiệu, không cần tôn vinh. Cha đã tự viết nên một cuộc đời đáng kính trọng bằng đôi tay đầy vết chai, bằng trái tim nhân hậu và bằng một đời sống cho người khác. Cha là ánh sáng lặng thầm trong trái tim tôi, là hình mẫu để tôi soi vào mỗi khi chênh vênh, mỗi khi muốn bỏ cuộc. Và cha là người khiến tôi hiểu rằng: Sống có ích, sống tử tế chính là cách để làm người trọn vẹn nhất!

ĐINH THỊ MAI PHƯƠNG