Trong suốt 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, người Việt Nam đã phải hát bài "La Marseillaise"-quốc ca Pháp như quốc ca của mình. Nhưng đó là cái lỗi của chế độ thực dân. Còn bài "La Marseillaise" mãi mãi là bài ca bất hủ của con người chống cường quyền. Chính cái bản chất hối thúc tranh đấu trong giai điệu này đã thúc giục những con người yêu nước Việt Nam đứng lên lật đổ chế độ thực dân. Quả là "gieo gió thì gặt bão". Cơn bão ấy đã dứt tung xiềng xích nô lệ vào ngày 19-8-1945, tạo nên cảm hứng cho một hành khúc ngày khởi nghĩa mang tên "Mười chín tháng Tám" ra đời. 

Nếu "La Marseillaise" được viết ra bởi một sĩ quan công binh tên là Rouget de Lisle trong chuyến giải tù binh từ Marseillaise về Paris (Pháp) và ban đầu được mang tên "Hành khúc chiến trận" thì "Mười chín tháng Tám" được viết ra bởi một cán bộ Việt Minh tên là Xuân Oanh. Khi Văn Cao viết “Tiến quân ca” cho đoàn quân Việt Minh, Nguyễn Đình Thi viết “Diệt phát xít” thì Xuân Oanh vẫn đang là cán bộ Việt Minh ở phía Nam Hà Nội. Trong thời khắc lịch sử của một cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội-ngày 19-8-1945 mở ra cao trào Tổng khởi nghĩa toàn quốc, Xuân Oanh bằng cảm hứng xuất thần ngay trong ngày khởi nghĩa ấy đã cho ra đời bản hành khúc mang tựa đề độc đáo “Mười chín tháng Tám”. Đấy là một tiếng nổ giai điệu bất ngờ và mạnh mẽ, một tiếng nổ hân hoan của toàn dân tộc đón chào cuộc đời tự do.

Bối cảnh ra đời hành khúc ấy là khi Xuân Oanh đi cùng đoàn biểu tình ở phía Nam Hà Nội từ khu vực ga Giáp Bát lên trung tâm thành phố. Đi trong đoàn biểu tình như hòa lẫn nỗi cơ cực của đời mình vào những nỗi cơ cực của bao người khác, Xuân Oanh có cảm giác như đang đồng hành với lịch sử gia đình mình từ thời ông nội vốn là một chí sĩ của Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục ở Thái Bình bị chính quyền thực dân Pháp đàn áp phải phiêu bạt khỏi quê hương. Gia đình ly tán. Người cha dạt về miền Đông Bắc, làm phu tại Móng Cái rồi về ở ẩn tại thị trấn Quảng Yên (nay thuộc Quảng Ninh) với nghề làm thợ may, rồi lấy vợ, sinh con và cư trú ở đây đến hết đời. Rồi cảm giác đồng hành với tuổi thơ cơ cực, tuổi thanh xuân vất vả, lam lũ từ xưởng kẽm, Phà Rừng, hầm lò Hòn Gai, thợ đúc Hải Phòng, thợ đóng giày Hà Nội chạy rần rật trong cơ thể như luồng điện mạnh, khiến ông trào dâng cảm xúc. Ngay từ khi bước chân đầu tiên dẫn đầu đoàn biểu tình rời ga Giáp Bát thì cũng là lúc những giai điệu đầu tiên cùng lời ca bản hành khúc đã bật ra từ đôi môi bỏng cháy khát vọng tự do:

                   "Toàn dân Việt Nam đứng đều lên góp sức một ngày

                   Thề đem xương máu quyết lòng chiến đấu cho tương lai

                   Mười chín tháng Tám khi khối dân căm hờn kêu thét

                   Tiến lên cùng hô: Mau diệt tan hết quân thù chung"

Được câu nào, Xuân Oanh lại truyền khẩu cho đoàn biểu tình hát theo. Chính vì thế nên cứ câu này gọi câu khác từ hiện thực khối người đang dịch chuyển bằng chí khí, năng lượng của lòng căm hờn. Cứ thế, giai điệu xô dạt trong tâm hồn Xuân Oanh theo làn sóng đoàn biểu tình rầm rập với cờ đỏ sao vàng.

                   "Mười chín tháng Tám ánh sao tự do đưa tới

                   Cờ bay nơi nơi, muôn ánh sao vàng

                   Máu pha tươi hồng trên lá cờ

                   Bay khắp chốn giang san

Đoàn người càng hát theo, càng khiến tâm hồn Xuân Oanh phấn khích hơn. Đến chợ Mơ thì bản hành khúc đã đi tới đoạn cuối:

                   “Người Việt Nam đều thống nhất reo vang lời thề

                   Mười chín tháng Tám chớ quên là ngày khởi nghĩa

                   Hạnh phúc sáng tô non sông Việt Nam”.

Xuân Oanh bắt nhịp cho đoàn người hát lại từ đầu. Vừa tuần hành, vừa hát rất khí thế. Những người dọc đường nhập đoàn biểu tình cũng nhanh chóng thuộc và hát theo. Hát hết bài thì quay lại từ đầu. Khi tới Nhà hát Lớn thì mọi người đã thuộc lòng, hát say sưa. Tất cả chỉ lặng im để nghe Dàn đồng ca Thiếu niên Tiền phong hát "Tiến quân ca” của Văn Cao trước lá cờ đỏ sao vàng. Rồi tiếp tục những “Diệt phát xít” (Nguyễn Đình Thi), “Cờ giải phóng” (Vương Gia Khương)... lại tiếp tục “ném bom” vào dinh lũy thực dân. Kết thúc là tiếng nổ hân hoan của “Mười chín tháng Tám” mà tác giả của nó giờ đứng lẫn trong các khối người biểu tình như những dòng sông cùng đổ về một đại dương.

leftcenterrightdel

Nhạc sĩ Xuân Oanh (1923-2010). Ảnh tư liệu 

Một bản hành khúc ngắn với lời ca chỉ có 102 từ như “Mười chín tháng Tám” nhưng nó lại là một bản tốc ký bằng âm nhạc, là một bài hát được viết nhanh nhất và đặc biệt nhất trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Chiều 19-8-1945, trong niềm hân hoan sau khi hoàn thành việc giành chính quyền ở Hà Nội, Xuân Oanh mới có dịp ký âm bản hành khúc trên vỏ bao thuốc lá, mang đến xưởng in của người bạn ở chợ Hôm tên là Vân Anh. Ngay lập tức, bản hành khúc được khắc gỗ và in ra như truyền đơn rải khắp phố phường Hà Nội. Cả Hà Nội đã hát “Mười chín tháng Tám” xuyên đêm. Rất tiếc, trải qua nhiều biến cố, đến nay bản khắc gỗ lịch sử không còn được lưu giữ. Nhưng Xuân Oanh thì còn giữ được vài bản in trên giấy thô, khổ A4, đầu trang có in hình lá cờ đỏ sao vàng góc trước tên bài hát. Rồi qua trường kỳ kháng chiến, ngay cả bản in cũng thất lạc. Song, “Mười chín tháng Tám” thì in mãi vào lòng từng người dân Việt qua các thế hệ như một bản khai sinh cho cuộc đời mới của đất nước.

Sau "Mười chín tháng Tám", trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Xuân Oanh có một ca khúc nghệ thuật nổi tiếng mang tên "Quê hương anh bộ đội". Ngày đầu hòa bình ở miền Bắc, ông lại có hành khúc "Hà Nội-Bắc Kinh-Mạc Tư Khoa" và "Ca ngợi chế độ ta tươi đẹp"... Bài hát “Ca ngợi chế độ ta tươi đẹp” được Đài Tiếng nói Việt Nam thu thanh với giọng hát Minh Đỗ như con chim oanh mùa xuân hót chào mầm sống tơ non của trời đất:

                   "Như con chim xinh tung cánh bay khắp nơi nghe rộn ràng

                   Đời sống đang vươn lên trên đất Việt chúng ta

                   Trong tiếng cười trên cánh đồng bao la

                    Nhà máy reo tiếng búa trong câu ca

                   Từ nay ta sống giữa tươi vui hạnh phúc

                   Muôn ngàn cánh tay đổi mới những xóm làng"...

Nhịp valse uyển chuyển với giai điệu tha thiết cứ thế cuốn ta đi vào một “bình minh trên đất nước không bao giờ tắt” như cái tên đầu tiên ông đặt cho bài hát. “Ca ngợi chế độ ta tươi đẹp” được nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đánh giá rất cao. 

Mặc dù bận bịu với công việc ngoại giao nhưng âm nhạc vẫn đồng hành với Xuân Oanh trong những thời điểm quan trọng và cần thiết. Vừa cống hiến cho sự nghiệp ngoại giao nhân dân, ông vẫn có lúc ngẫu hứng tạo ra những giai điệu mới như: "Hà Nội-Hà Nội", "Hà Nội ở Lâm Đồng"... Đặc biệt, trong một lần tới Paris (Pháp) trước Tết Mậu Thân 1968 để chuẩn bị cho việc đối ngoại nếu hội nghị diễn ra ở Paris giữa 4 bên, biết Xuân Oanh là tác giả của hành khúc “Mười chín tháng Tám” nổi tiếng, bà con Việt kiều đề nghị ông viết một nhạc phẩm thật lớn lao về quê hương. Chỉ với vốn tự học âm nhạc của mình, ông xúc động nhận lời và đóng cửa phòng hai ngày liền để hoàn thành tổ khúc hợp xướng 4 chương “Quê hương hai tiếng ấy”. Nhạc phẩm đã được dàn đồng ca 70 người biểu diễn dưới sự dàn dựng và chỉ huy của nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo-một nhạc sĩ người Việt thuộc trường phái “tiên phong” (Vanguard) ở Pháp. Nhiều kiều bào trong dàn đồng ca ấy còn nhớ giai điệu không thể quên được của ông. Họ vẫn hát lại cho ông nghe vào những dịp đến thăm ông mỗi khi về nước. 

Năm 1989, trong phong trào “Đợt sóng hòa bình” lấy một tỷ chữ ký trên thế giới chống bom nguyên tử, tại Hiroshima, phỏng theo bài thơ “Trời sẽ lại trong xanh” của nhà thơ Umeda Shyozi nổi tiếng Nhật Bản, ông lại viết một tổ khúc hợp xướng 4 chương cùng tên, chỉ huy dàn nhạc của Nhật Bản và hàng nghìn người Nhật hát vang nhạc phẩm này khiến người Nhật coi ông như người thân thiết.

Bên cạnh tài năng về nhạc, họa, dịch thuật nhiều tác phẩm văn học nước ngoài sang tiếng Việt và một số tác phẩm văn học Việt Nam sang tiếng Anh, Xuân Oanh cũng làm thơ. Nếu Văn Cao có trường ca “Những người trên cửa biển”, Nguyễn Đình Thi có “Bài thơ Hắc Hải” thì Xuân Oanh có “Đi tìm mùa xuân ở khoảng giữa” với những nhịp điệu của chiêm nghiệm từ đáy sâu những trớ trêu, những thất lỡ của kiếp người như “Văn chiêu hồn” của Nguyễn Du. Trường ca như những trang nhật ký cô đặc từ sau trang nhật ký âm thanh “Mười chín tháng Tám”.

Nhạc sĩ Xuân Oanh được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật năm 2007 với chùm ca khúc trong đó có bài "Mười chín tháng Tám". 

 Nhạc sĩ NGUYỄN THỤY KHA