Thực ra quốc phục, lễ phục không phải là vấn đề mới mà đã được dư luận quan tâm, thảo luận từ khá lâu. Cách đây tròn 10 năm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch từng có hẳn một đề án cấp nhà nước về lễ phục. Tuy nhiên, đến nay câu chuyện này vẫn còn bỏ ngỏ do nhiều nguyên nhân...
Quốc phục là niềm tự hào quốc gia
Nhìn chung trên thế giới, ở tất cả quốc gia đều không có quy định về quốc phục mà chỉ có quy định về lễ phục. Tuy nhiên, ý niệm và tính biểu tượng của quốc phục lại thường rất cao, bởi gắn liền với truyền thống văn hóa và niềm tự hào của cả một quốc gia. Nhưng không phải quốc gia nào cũng có quốc phục.
Quốc phục là loại hình trang phục truyền thống, được cộng đồng dân tộc, quốc gia sử dụng trong thời gian dài, mặc nhiên được xem là trang phục chung. Quốc phục được sử dụng trong các lễ, Tết truyền thống, các nghi thức lễ tân ngoại giao quan trọng, vì vậy, nó được cả cộng đồng trân trọng, tự hào. Nói đến quốc phục, hẳn chúng ta sẽ nghĩ ngay đến bộ kimono của người Nhật Bản, hanbok của Hàn Quốc, sari của Ấn Độ, váy kilt của Scotland, bộ kebaya của Indonesia... Còn ở Việt Nam, chắc chắn sẽ là áo dài!
Áo dài là loại hình trang phục tiêu biểu, đã đi cùng lịch sử hình thành, xây dựng và phát triển đất nước của người Việt Nam. Ở các thời kỳ khác nhau có sự thay đổi nhưng đó vẫn là chiếc áo dài! Khoảng đầu thế kỷ 17, ở Đàng Trong đã xuất hiện một loại áo dài mới, rất phù hợp với môi trường sống, quan niệm sống và tính cách của người Việt hồi đó: Áo ngũ thân (hay áo năm thân). Đây cũng là tiền thân của các loại hình áo dài truyền thống đương đại của nước ta hiện nay. Từ năm 1744, gắn liền với công cuộc cải cách và định chế trang phục ở Đàng Trong, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã quy định, áo ngũ thân trở thành loại thường phục chung của cư dân toàn xứ sở. Sang đầu thế kỷ 19, trong những năm 1827-1837, sau khi thống nhất và ổn định tình hình đất nước, vua Minh Mạng đưa ra quy định bắt buộc tất cả người dân Việt Nam, từ Bắc chí Nam đều phải sử dụng trang phục áo ngũ thân và xem đây là sự thống nhất về văn hóa của một quốc gia độc lập với nền văn hiến lâu đời, có chế độ y quan (áo mũ) rực rỡ!
So với các loại hình áo dài khác (cả áo dài nam và nữ), áo ngũ thân tay chẽn là loại trang phục giản tiện, gọn gàng vì nó là loại thường phục dành cho tất cả đối tượng, không phân biệt địa vị, giai tầng xã hội (rất khác so với triều phục vốn có sự phân biệt rất rõ ràng về thứ bậc). Tuy nhiên, áo dài ngũ thân lại mang trên mình những ý nghĩa rất sâu sắc. Trang phục áo dài ngũ thân đầy đủ bao gồm 4 bộ phận: Khăn vấn, áo, quần và giày/guốc. Đối với đàn ông Việt, chiếc khăn vấn (từ đầu thế kỷ 20 xuất hiện loại khăn đóng sẵn để giản tiện hơn và phù hợp với việc cắt tóc ngắn) có hình chữ Nhân hay chữ Nhất, không chỉ làm tôn lên dáng vẻ khuôn mặt, khắc phục được các hạn chế về mái tóc, giúp họ cao hơn vài phân mà còn khiến họ không thể nhầm lẫn với đàn ông các dân tộc khác. Chiếc áo ngũ thân có cổ tròn, cao từ 3 đến 4cm, giữ cho người mặc luôn nhìn thẳng; áo có 5 thân, gồm hai thân trước, hai thân sau (được đấu nối với nhau do ngày xưa khổ vải hẹp) và một thân con bên trong, biểu tượng cho tứ thân phụ mẫu và bản thân người mặc; 5 hạt cúc áo thì biểu tượng cho 5 phẩm chất cao quý làm người (ngũ thường): Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín (hoặc dũng), cũng biểu trưng cho 5 mối quan hệ rường cột trong xã hội (ngũ luân): Vua-tôi, thầy-trò, cha-con, chồng-vợ, bạn bè. Chiếc quần trắng ống rộng giúp người mặc thoải mái. Đôi hài (thành thị) hoặc guốc gỗ (vùng nông thôn) được sử dụng cùng, nhưng từ đầu thế kỷ 20, tiếp thu ảnh hưởng của văn minh phương Tây, trang phục áo ngũ thân đã kết hợp với giày tây hay giày hạ hoặc các loại dép da...
Với nữ giới thì chiếc áo ngũ thân (cấu tạo cũng tương tự chiếc áo nam) khiến họ trở nên đoan trang, kín đáo mà vẫn nền nã, nữ tính. Áo ngũ thân nữ có cổ áo thấp để khoe chiếc cổ cao 3 ngấn duyên dáng; phối cùng áo là khăn lươn vấn đầu một hoặc hai lớp, cùng quần trắng và hài hoặc guốc mộc, sau này thường kết hợp với các loại giày cao gót được thiết kế phù hợp.
Bên ngoài áo ngũ thân tay chẽn, khi có nghi lễ thì ông cha chúng ta sẽ khoác thêm một chiếc áo tay rộng (gọi là áo lễ hay áo thụng), cùng kiểu cổ tròn, cổ đứng (viên lĩnh, lập lĩnh) như áo tay chẽn hay vạt chéo (giao lĩnh) tùy theo nghi lễ, còn hầu hết lúc khác chỉ mặc thường phục tay chẽn.
Có thể nói, áo dài ngũ thân là loại trang phục độc đáo, riêng có của người Việt, vừa tiện dụng, phù hợp với môi trường sống, tầm vóc và tính cách người Việt Nam lại vừa rất đẹp và không kém phần trang trọng, kín đáo.
Từ đầu thế kỷ 20, sau khi bị thực dân Pháp đô hộ, dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ của văn minh phương Tây và nhiều phong trào cải cách, các loại âu phục dần chiếm lĩnh và thay thế áo dài truyền thống, đặc biệt đối với áo dài nam. Tuy vậy, trong thời kỳ này, áo dài vẫn được gọi là quốc phục để phân biệt với Âu phục, là loại trang phục mới tiếp thu của người châu Âu. Áo dài trở thành một danh từ riêng và được giữ nguyên dạng “ÁO DÀI”/ “AO DAI” trong nhiều bộ từ điển lớn trên thế giới khi viết về trang phục đặc trưng của người Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2006, chúng ta đã đề nghị toàn bộ vị nguyên thủ quốc gia tham dự hội nghị APEC mặc áo dài Việt Nam trong một buổi lễ rất trang trọng của nước chủ nhà.
Vậy sao chúng ta còn phải băn khoăn và đi tìm quốc phục cho mình?
|
|
Lễ phục Việt Nam bảo đảm vẻ đẹp, sự trang trọng và bản sắc văn hóa riêng. Ảnh: PHAN THANH |
Lễ phục và những quy định còn bất cập hiện nay
Khác với quốc phục, lễ phục lại có quy định chặt chẽ, cụ thể.
Ở các nước Âu-Mỹ, lễ phục cũng có lịch sử lâu đời và được quy định rất chặt chẽ với các loại hình khác nhau. Trong các nghi lễ trọng thể mang tính quốc gia, quốc tế, họ thường sử dụng loại lễ phục white-tie (trang phục áo đuôi tôm màu trắng, thắt nơ trắng); đối với các nghi lễ mang tính riêng tư hơn như lễ đính hôn, lễ cưới thì thường sử dụng loại lễ phục black-tie (thắt nơ đen) và kèm theo những quy định rất chặt chẽ về các phụ kiện đi kèm (mũ, cổ áo, tay áo, khuy áo, đai bụng, giày, tất). Còn bộ comple/veston (quần âu, áo sơ mi, áo vét và cà vạt) mà chúng ta thường thấy thì chỉ xếp vào loại thường phục (business suite), có thể mặc ở chốn công sở hay trong mọi hoạt động hằng ngày.
Ở nước ta, trong thời quân chủ, lễ phục cũng được quy định rất chặt chẽ cho cả 4 loại hình nghi lễ quan trọng nhất: Quan, hôn, tang, tế chứ không sử dụng tùy tiện. Theo quan điểm truyền thống, trang phục (chế độ y quan) là biểu hiện của một quốc gia độc lập, một nền văn hiến và tự chủ nên hầu như các triều đại sau khi thành lập đều tiến hành định chế triều phục. Một chế độ “y quan rực rỡ” luôn là niềm tự hào của các triều đại độc lập. Tương truyền, vào năm 1407, khi Hồ Quý Ly bị giặc bắt và giải đến Kim Lăng, triều đình nhà Minh có hỏi ông về phong hóa của người Việt, ông đã tự hào và khảng khái trả lời: “Y quan Đường chế độ/ Lễ nhạc Hán quân thần” (nghĩa là áo mũ tương tự nhà Đường, lễ nhạc như vua quan nhà Hán; Đường và Hán là hai triều đại lý tưởng của thời phong kiến Trung Hoa).
Triều Nguyễn là triều đại có quy định chặt chẽ, tỉ mỉ nhất về các loại lễ phục. Bộ sách “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” do Nội các biên soạn đã dành dung lượng khá lớn ở phần Bộ Lễ để nói rõ những quy định về lễ phục của triều đại. Như vậy, trước năm 1945, chúng ta có lễ phục với những quy định cụ thể.
Hiện nay, chúng ta chưa có một quy định riêng về lễ phục, nhưng tại “Quy chế văn hóa công sở tại cơ quan hành chính nhà nước” do Thủ tướng Chính phủ ban hành (Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg) thì đã có quy định: Lễ phục nam giới là bộ comple, áo sơ mi, cravat và với nữ giới là áo dài truyền thống và bộ comple nữ. Quy định này xem ra chưa phù hợp vì ít nhất hai điều: Thứ nhất, bộ comple, như trên đã viết, chỉ là bộ thường phục của các nước Âu-Mỹ, dù hiện nay đã rất phổ biến trên toàn thế giới, nhưng làm sao lại có thể trở thành lễ phục của một quốc gia? Và thứ hai, tại sao lễ phục của nữ giới là áo dài truyền thống mà nam giới lại không có loại trang phục này?
Đã đến lúc chúng ta cần nghiêm túc, khách quan nhìn thẳng vào vấn đề trên.
Theo tôi, hoàn toàn có thể quy định: Lễ phục của người Việt Nam là áo dài truyền thống, bao gồm cả hai giới nam và nữ. Chiếc áo dài của ta hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu về tính trang trọng, vẻ đẹp, bản sắc văn hóa... của một bộ lễ phục. Nhưng cần có quy định cụ thể về quy cách, màu sắc, họa tiết trang trí và các phụ kiện đi kèm.
Một quốc gia có lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm với nền văn hiến lâu đời thì không thể không có quốc phục và lễ phục!
TS PHAN THANH HẢI